- Bài viết
- 3,872
- Xu
- 3,222

Việt Nam cán mốc 100 triệu người: Tận dụng cơ hội có một không hai
Vào tháng 4 tới, dân số cả nước sẽ cán mốc 100 triệu người. Cơ hội thị trường trăm triệu dân mở ra nhưng cũng không ít thách thức khi hàng chục triệu lao động chưa được đào tạo trở thành rào cản với việc cải thiện năng suất, nâng cao thu nhập.
Vào tháng 4 tới, dân số cả nước sẽ cán mốc 100 triệu người. Cơ hội thị trường trăm triệu dân mở ra nhưng cũng không ít thách thức khi hàng chục triệu lao động chưa được đào tạo trở thành rào cản với việc cải thiện năng suất, nâng cao thu nhập.

Vào giữa tháng 4 tới, dân số cả nước sẽ đạt 100 triệu người, mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế - xã hội cho Việt Nam. Trong ảnh: niềm vui của đôi vợ chồng trẻ khi đứa con thương yêu chào đời - Ảnh: THIÊN CHƯƠNG
Trao đổi với Tuổi Trẻ, ông Nguyễn Trung Tiến, phó tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, cho biết Việt Nam đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, phải tận dụng được cơ hội này.
Ngoài ra, chúng ta đã duy trì mức sinh ổn định trong hơn một thập niên qua, xu hướng sinh hai con là phổ biến, cần tiếp tục duy trì vững chắc mức sinh thay thế nhằm kéo dài thời gian cơ cấu dân số vàng, làm chậm quá trình già hóa dân số.
Cơ hội có một không hai

Ông Nguyễn Trung Tiến - Ảnh: NAM TRẦN
* Theo ông, dân số cán mốc 100 triệu người mang tới những cơ hội và áp lực gì?
- Quy mô dân số 100 triệu người là nguồn lực vững vàng cho thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội, là cơ hội phát triển đất nước nhanh, bền vững. Hơn nữa, chúng ta đang trong thời kỳ cơ cấu dân số vàng, gần 70% dân số trong độ tuổi lao động. Theo quy luật, thời kỳ dân số vàng là cơ hội "có một không hai" để các quốc gia phát triển kinh tế - xã hội và cơ hội này chỉ xảy ra một lần trong lịch sử phát triển của các quốc gia.
Bên cạnh đó, chúng ta duy trì được mức sinh thay thế nhưng đang có sự chênh lệch mức sinh giữa các vùng, miền. Trong đó, hai vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long có mức sinh thấp và thấp hơn mức sinh thay thế.
Theo nghiên cứu của các nhà nhân khẩu học, mức sinh là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định quy mô, cơ cấu của một dân số trong hiện tại và tương lai. Nếu mức sinh quá thấp sẽ dẫn đến nguy cơ già hóa dân số quá nhanh, thiếu hụt lực lượng lao động, gia tăng những vấn đề an sinh xã hội. Hệ lụy càng nghiêm trọng nếu già hóa dân số quá nhanh xảy ra với những quốc gia còn đang trong quá trình phát triển, năng suất lao động chưa cao.
* Với quy mô dân số hiện nay, chúng ta có những lợi thế gì so với các nước trong khu vực?
- Việt Nam là quốc gia đông dân thứ ba trong khu vực Đông Nam Á (sau Indonesia và Philippines) và đứng thứ 15 trên thế giới. Quy mô dân số những năm qua tăng tương đối ổn định, khoảng gần 1 triệu người/năm. Trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế toàn cầu, khi các nước đều coi nguồn nhân lực là lợi thế của quốc gia thì sự ra đời của công dân thứ 100 triệu là dấu mốc quan trọng, tạo cơ hội cho nước ta nâng cao vị thế trong khu vực và trên thế giới.
Tận dụng được cơ hội từ cơ cấu dân số vàng, đầu tư hiệu quả cho giáo dục - đào tạo để phát triển nguồn nhân lực, nâng cao kỹ năng, trình độ lao động sẽ tạo ra nguồn lực để phát triển đất nước.

Theo Tổng cục Thống kê, với tốc độ tăng dân số trung bình những năm gần đây, dự báo trung tuần tháng 4, Việt Nam sẽ đón công dân thứ 100 triệu chào đời - Ảnh: DUYÊN PHAN
Hơn 38 triệu lao động chưa qua đào tạo
* Một trong những rào cản trong việc nâng cao năng suất, thu nhập cho người lao động hiện nay là trình độ, kỹ năng lao động chưa cao. Ông có thể cho biết cả nước hiện có bao nhiêu người trong độ tuổi lao động và số lao động có kỹ năng, trình độ trong cơ cấu lao động hiện nay như thế nào?- Số người từ 15 tuổi trở lên năm 2022 là 75,4 triệu người, trong đó có 51,7 triệu người thuộc lực lượng lao động. Trong số 51,7 triệu người lao động, có tới 73,8% lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, 26,2% lao động có chuyên môn kỹ thuật (bao gồm 3,7% người có trình độ sơ cấp, 1,9% người có trình độ trung cấp, 1,9% người có trình độ cao đẳng và 6,1% người có trình độ từ đại học trở lên).
Cả nước hiện có khoảng 38,1 triệu người lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật và 13,6 triệu lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật từ sơ cấp trở lên.
* Sự khác biệt về thu nhập giữa lao động có trình độ, kỹ năng và lao động không có trình độ, kỹ năng như thế nào, và cần làm gì để cải thiện trình độ, kỹ năng, tăng thu nhập cho người lao động?
- Thu nhập bình quân của người lao động năm 2022 là 6,7 triệu đồng/tháng. Thu nhập của người lao động có sự khác biệt theo trình độ học vấn. Nhóm lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật có thu nhập là 5,7 triệu đồng/tháng, trong khi nhóm có trình độ chuyên môn kỹ thuật là cao gấp 1,6 lần với khoảng 9,3 triệu đồng/tháng.
Và để cải thiện trình độ, kỹ năng, nâng cao thu nhập cho người lao động, cần tuyên truyền, nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về đào tạo nghề cho công nhân đầy đủ để chất lượng đào tạo nghề đáp ứng nhu cầu thị trường lao động.
Đối với nước ta hiện nay, muốn ứng dụng công nghiệp 4.0 đòi hỏi phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực bắt đầu ngay từ khâu đào tạo, nâng cao trình độ tay nghề. Nguồn lao động của nước ta tương đối dồi dào nhưng chủ yếu là lao động tay nghề thấp, vì vậy dễ dàng bị thay thế bởi máy móc vốn ngày càng phát triển.
Vì thế, nâng cao nhận thức của công nhân, người lao động để họ thấy rõ việc học tập nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp vừa là quyền lợi vừa là yêu cầu để đảm bảo việc làm, nâng cao thu nhập, nâng cao năng suất lao động, bảo đảm chất lượng sản phẩm, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển doanh nghiệp, phát triển kinh tế - xã hội đất nước.

Đồ họa: T.ĐẠT
* GDP bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay chưa cao, khoảng trên dưới 4.000 USD/năm. Bên cạnh việc tăng quy mô dân số, chúng ta cần làm gì để tăng GDP bình quân đầu người, cải thiện thu nhập cho người dân?
- Năng suất lao động và việc làm là các yếu tố tác động đến tăng trưởng GDP. Tăng trưởng GDP dựa trên tăng việc làm thường không cao và thiếu bền vững, trong khi tăng trưởng GDP theo hướng tăng năng suất lao động tuy là một thách thức nhưng tạo ra tăng trưởng cao, bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, có thể tính đến theo cấp số nhân.
Nhưng để nâng cao năng suất lao động, tăng thu nhập của người lao động cần tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp như: thường xuyên theo dõi, đánh giá sự tiến bộ trong việc thu hẹp khoảng cách về năng suất lao động so với các nước trong khu vực.
Nâng cao năng lực khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp. Đẩy nhanh tiến độ triển khai các chương trình hỗ trợ chuyển giao, đổi mới công nghệ nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Tăng cường đầu tư hoạt động nghiên cứu và phát triển trong các doanh nghiệp. Phát huy liên kết giữa Nhà nước - nhà khoa học - doanh nghiệp để ứng dụng, chuyển giao các kết quả nghiên cứu khoa học công nghệ vào sản xuất...