Từ vùng đất Mang Khảm đến trấn Hà Tiên - Mất gần 100km đất về campuchia

Long Đế

Long Đế Đại Việt
⚔VIP⚔
Bài viết
1,227
Xu
2,776

Từ vùng đất Mang Khảm đến trấn Hà Tiên - Mất gần 100km đất về campuchia​


2-1.jpeg


Lãnh thổ trấn Hà Tiên vào năm 1757: vùng màu nâu, ranh giới phỏng theo tư liệu. Đây là giai đoạn dưới thời Mạc Thiên Tích, trấn Hà Tiên có diện tích lớn rộng nhất, diện tích lên đến hàng chục ngàn km².

3-1.jpeg


Lãnh thổ thành phố Hà Tiên vào năm 2018: vùng màu đỏ, diện tích thu nhỏ lại khoảng chừng 100 km²





Patrice Trần Văn Mãnh
Paris, viết xong ngày 27/02/2023

I/ Nhập bài:
Chúng ta đều biết Mạc Cửu là người từ nước Trung Hoa đến vùng đất mang tên Mang Khảm (còn có tên là Phương Thành) và khai phá vùng đất nầy để sau đó trở thành một trấn rất rộng lớn mang tên mới là Hà Tiên. Tuy nhiên chúng ta lại biết một cách mơ hồ và thiếu sót khi muốn trả lời câu hỏi: « Họ Mạc quản thủ trấn Hà Tiên như thế đến bao nhiêu năm và trong gia đình họ Mạc thì ai là những người làm đến chức Tổng Trấn Hà Tiên? ». Nói một cách khác từ năm dựng đất và phát triển thành trấn Hà Tiên để nhập vào lãnh thổ nhà Nguyễn (1708) cho đến năm 1867 khi quân Pháp chiếm Hà Tiên, họ Mạc có bao nhiêu người được làm quan cai trị trấn, tỉnh Hà Tiên?
Thực ra trong sự hiểu biết còn có rất nhiều giới hạn của chúng ta về lịch sử Hà Tiên, chúng ta chỉ có thể liệt kê tên của vài nhân vật nổi tiếng trong gia đình họ Mạc như: Mạc Cửu, Mạc Thiên Tích, Mạc Tử Sanh, Mạc Công Du..v..v… Ngoài ra chúng ta không biết được nhiều hơn về lai lịch từng người trong gia đình họ Mạc, còn không thể biết hết những ai đã từng nối tiếp cha ông để làm quan quản thủ đất Hà Tiên. Nội dung bài viết nầy chỉ đơn giản là tìm hiểu phần nào vấn đề nêu trên, với một sự tìm tòi tạm thời, không thể gọi là kết quả của một sự nghiên cứu có tính chất hàn lâm, mong được người Hà Tiên nói riêng và chúng ta nói chung, đọc qua để có một cái nhìn khái quát hơn và làm giảm bớt sự tò mò của chúng ta khi muốn biết về vùng đất Hà Tiên với những ai đã từng là quan cai trị vùng đất nầy, dĩ nhiên phải là những người xuất thân trong gia đình họ Mạc, nhưng dần dà, dưới sự kiểm soát của nhà Nguyễn, Hà Tiên trở thành một bộ phận của nguyên thể Đại Việt, thì những người đứng đầu cũng sẽ là những vị quan chức do nhà Nguyễn bổ nhiệm.
Các sự kiện lịch sử, các niên đại được nêu ra trong nội dung bài viết qua tóm tắt tiểu sử của từng vị quan quản thủ Hà Tiên có thể có nhiều sai sót, ngoài ra tác giả cũng không thể thiết lập lại một lịch trình từng năm một từ năm 1708 cho đến năm 1867 để nêu ra một cách chi tiết và chính xác tên tuổi của tất cả các vị quan cai trị vùng đất Hà Tiên. Do đó bài viết chỉ có tính chất đề nghị, giới thiệu sơ lược và từ đó tạo nên một nguồn cảm hứng và sự tiếp nối đến với quý học giả, quý vị cao niên, quý anh chị để được tiếp nhận nhiều ý kiến đóng góp, chỉnh sửa để chúng ta tìm được một loạt những câu trả lời cho các câu hỏi nêu trên, từ đó giúp cho sự hiểu biết về lịch sử quê hương Hà Tiên được phong phú và đầy đủ hơn, đó là điều mong ước của tác giả. Xin quý vị thông cảm và rộng lượng cho việc đọc bài nhé. Xin cám ơn tất cả.
II/ Đại cương về tình hình vùng đất Hà Tiên từ năm 1708 cho đến năm 1867:
Năm 1679, nước Trung Hoa xảy ra một biến cố quan trọng: quân Mãn Thanh tiếp tục đánh chiếm gần như toàn bộ lãnh thổ nhà Minh, bình định Quảng Đông, sự kiện nầy gây ra vài cuộc di cư rất quan trọng, có ảnh hưởng đến sự Nam tiến của nhà Nguyễn sau đó và làm thay đổi diện mạo gần cả toàn vùng đất của Đàng Trong. Đó là cuộc di cư đến nước ta (lúc đó có tên là Đại Việt) của quan thần nhà Minh: Dương Ngạn Địch và Trần Thượng Xuyên, nguồn gốc của sự thành lập các thành phố vùng Mỹ Tho và Đồng Nai.

Một cuộc di cư khác không kém phần quan trọng nếu không muốn nói là có tính chất quyết định và giúp cho cuộc Nam tiến của nhà Nguyễn kết thúc vừa tiết kiệm các cuộc chiến tranh chiếm đất vừa tranh thủ về thời gian, đó là công cuộc dựng đất vùng Hà Tiên của Mạc Cửu.
Từ năm 1671, Mạc Cửu lúc đó còn trẻ đã theo tàu buôn khắp vùng biển Đông Nam Á và sau đó đã ghé lại Nam Vang để làm việc lâu dài cho triều đình vua Cao Miên. Sau gần 10 năm chạy loạn qua đất Xiêm, Mạc Cửu về Lũng Kỳ (vùng đất thuộc nước Cao Miên, phía Tây Bắc đảo Phú Quốc) và đến năm 1700, Mạc Cửu đến đất Mang Khảm (tên xưa của Hà Tiên ngày nay), bắt đầu công cuộc khai phá đất đai và dựng làng thôn.
Niên đại 1708 là niên đại lịch sử không những đối với Hà Tiên mà còn là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử Nam tiến, đó là năm Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn Phúc Chu, được phong tặng chức tước và được cai quản đất Hà Tiên như là một phó vương với tính chất gần như là độc lập. Trong thời gian dựng dất, Hà Tiên bắt đầu phồn thịnh, dân chúng tụ họp đông đúc. Tuy nhiên Hà Tiên cũng không thể yên ổn dưới sự dòm ngó của lân bang, năm 1718, quân Xiêm tấn công đốt phá thành thị, nhà cửa, Mạc Cửu tị nạn về Lũng Kỳ và vợ ông sinh ra Mạc Thiên Tích tại đây. Năm sau ông về Hà Tiên xây dựng lại xứ sở cho đến năm 1765 Mạc Cửu thọ bệnh và qua đời.
Mạc Thiên Tích tiếp nối sự nghiệp của cha, củng cố việc hành chánh, quân sự, mở rộng đất đai mới: Rạch Giá, Cà Mau, Trấn Di (Bạc Liêu), Trấn Giang (Cần Thơ). Năm 1757 Mạc Thiên Tích còn mở rộng Hà Tiên thêm 5 phủ của vùng đất thuộc bên Cao Miên, trấn Hà Tiên lúc đó phát triển nhanh chóng và có diện tích rất rộng lớn, trải dài từ vùng vịnh Kompong Som (nay là vùng Sihanoukville thuộc nước Cambodge) cho đến tận mũi Cà Mau.
Một sự kiện quan trọng về văn hóa trong thời kỳ đầu quản trị Hà Tiên của Mạc Thiên Tích là sự ra đời của Tao Đàn Chiêu Anh Các năm 1736, một hoạt động văn hóa, tôn giáo và giáo dục, kết quả của sự tiếp đón, chiêu đải hiền tài, mở trường dạy chữ…Với hoạt động nầy, Hà Tiên đã gây ấn tượng trong giới văn nhân thời đó đến độ nhà bác học Lê Quý Đôn sau khi xem được tập “Hà Tiên thập vịnh” theo bản khắc gỗ in của Mạc Thiên Tích, đã không tiếc lời khen ngợi và thốt lên rằng “không thể bảo rằng ở vùng hải ngoại xa xôi không có văn chương vậy”.
Hà Tiên dưới thời Mạc Thiên Tích là giai đoạn củng cố và phát triển, về quân sự đã đẩy lùi được giặc bên ngoài, lại phá tan được nhiều vụ nổi loạn, dẹp tan bọn cướp biển mưu chiếm Hà Tiên.
Về thương mại và giao lưu với nước ngoài, Mạc Thiên Tích mở cửa đón nhận ghe tàu thương thuyền các nước khác kể cả các nước Âu Châu…Ông cũng tiếp đón nhiều người đến Hà Tiên tị nạn, các giáo sĩ truyền giáo được phép đến vùng trấn Hà Tiên lưu trú, mở trường hoạt động.
Tuy nhiên kể từ năm 1769, quân sĩ đi chiến dịch xa nơi đất Xiêm bị bệnh thời khí và giông bão chết dọc đường rất nhiều, Hà Tiên bắt đầu suy yếu và đi vào chiến tranh tàn khốc vì quân Xiêm thừa lúc đó động binh gây hấn. Hà Tiên bị quân xiêm chiếm đóng từ năm 1771, Mạc Thiên Tích và quần thần phảỉ chạy về Trấn Giang và đó là lần cuối cùng Mạc Thiên Tích rời khỏi Hà Tiên để không trở lại được nữa. Sau ba năm chiếm đóng của quân Xiêm, Hà Tiên trở thành đất hoang, dinh thự, nhà cửa bị tàn phá nặng nề. Mặt khác quân Tây Sơn bắt đầu dấy binh, nhà Nguyễn bị lâm nguy với nhiều cuộc truy kích của Tây Sơn, Mạc Thiên Tích phải qua Xiêm lưu trú.
Đến khi chúa Nguyễn Ánh bắt đầu khôi phục dần cơ đồ thì lại xảy ra nhiều sự hiểu lầm, ngộ nhận khiến cho vua Xiêm nghị kỵ phái đoàn Mạc Thiên Tích ở Vọng Các (Bangkok, Thái Lan), cuối cùng cả nhóm đều bị vua Xiêm giết chết, Mạc Thiên Tích vì uất ức nên tự tử ở đó (1780).
Sau khi chúa Nguyễn Ánh toàn thắng Tây Sơn (1802) lên ngôi là vua Gia Long, vua đã cho chỉnh đốn lại vùng Hà Tiên, tiếp tục phong chức cho con cháu Mạc Cửu như Mạc Tử Sanh, Mạc Công Bính, Mạc Tử Thiêm làm trấn thủ Hà Tiên. Tuy nhiên Hà Tiên không còn là vùng đất phồn thịnh như trước nữa mà đã bắt đầu chịu ảnh hưởng của nước Xiêm và dần dần trực tiếp dưới sự kiểm soát của nhà Nguyễn, do chính vua Gia Long bổ nhiệm các quan trấn thủ vì sau đời Mạc Tử Thiêm thì con cháu họ Mạc còn nhỏ không thể quản trị việc chánh trị, quân sự được nữa.
Đến năm 1816 Mạc Công Du được phong quan Hiệp Trấn, lần lần được nắm quyền quản thủ Hà Tiên. Trong thời gian nầy lại có biến cố Lê Văn Khôi nổi loạn chống nhà Nguyễn và xâm chiếm Hà Tiên, con cháu Mạc Công Du theo nhận chức của giặc loạn nên đều bị tội, em của Mạc Công Du là Mạc Công Tài là người cuối cùng trong họ Mạc giữ chức trấn thủ Hà Tiên (1832), sau đó cả anh em, con cháu đều bị kết tội, bị lưu đày xa xứ.
Đến giai đoạn nầy thì mặc dù con cháu họ Mạc vẫn còn ở Hà Tiên, tuy phải đổi họ và trốn tránh, nhưng sau đó đến đời vua Thiệu Trị, năm 1846, nhà vua mới cho phục hồi Mạc Công Miếu cất lại nơi núi Lăng, cho người tìm con cháu họ Mạc để ban chức và lo việc thờ phụng, giữ gìn ngôi miếu. Tuy nhiên họ Mạc đến đây đã không còn người để làm Trấn Thủ như cha ông ngày trước. Hà Tiên hoàn toàn do triều đình nhà Nguyễn quản lý và cấp quan cai trị.
Nhà Nguyễn cử các vị quan văn, võ lần lược đến quản thủ Hà Tiên với danh xưng Tổng Đốc, lúc bấy giờ Hà Tiên và An Giang được nhập lại với tên An Hà, vị Tổng Đốc sau gia đình họ Mạc là Lê Đại Cương (1833) đến vị Tổng Đốc cuối cùng trước khi quân Pháp chiếm Hà Tiên là Phan Khắc Thận (1867). Từ đây Hà Tiên chỉ còn là một tỉnh nhỏ dưới sự cai quản của quân Pháp. Từ một trấn Hà Tiên rộng lớn đầy thịnh vượng về cả mọi mặt thương mại, hàng hải, văn hóa, Hà Tiên đã mất đi tầm ảnh hưởng quan trọng của thời đại dựng đất và phát triển để thu nhỏ lại chỉ còn là một tỉnh rồi một quận lẻ của miền cực Tây đất nước. Đối với người Hà Tiên, chúng ta tự xem như là con cháu của những vị công thần đi tiên phong khai dựng đất đai, Hà Tiên tuy đã đổi khác nhưng vẫn là vùng đất thân yêu và luôn ngự trong trái tim của chúng ta.
III/ Sơ lược các giai đoạn của các quan quản thủ Hà Tiên kể từ lúc thành lập trấn Hà Tiên (1708) cho đến lúc Hà Tiên bị Pháp chiếm (1867):
A/ Mạc Cửu :

Mạc Cửu là người gốc Trung Hoa, sinh năm 1655 tại Lôi Châu, Quảng Đông (Trung Hoa), mất năm 1735 tại Hà Tiên.
Vào năm 1679 nhà Thanh chiếm Quảng Đông, một số quan thần nhà Thanh bắt đầu rời khỏi Trung Hoa dùng tàu biển tị nạn về phía nam, đến đầu phục chúa Nguyễn ở Việt Nam. Năm 1680 Mạc Cửu đến Nam Vang làm việc cho vua Cao Miên và được giữ chức Ốc Nha (Oknha).

Năm 1700 Mạc Cửu đến vùng đất Mang Khảm (còn có tên Phương Thành), ông bắt đầu chiêu mộ cư dân, lập ra 7 thôn xã. Đến năm 1708 Mạc Cửu dâng đất xin đầu phục chúa Nguyễn Phúc Chu và được chúa phong chức Tổng Binh, làm Hà Tiên Trưởng.
Chức tước được phong : Oknha (Khmer) ; Hà Tiên Trấn Tổng Binh Cửu Ngọc Hầu (Việt Nam).
Sau khi ông mất, Mạc Cửu được các vua nhà Nguyễn phong chức : Khai Trấn Thượng Trụ Quốc Đại Tướng Quân Vũ Nghị Công, Thọ Công Thuận Nghĩa Trung Đẳng Thần, Thượng Đẳng Thần.
Mạc Cửu được thờ tại đền Mạc Công Miếu và đình Thần Thành Hoàng ở Hà Tiên. Tại thị trấn Kiên Lương (Cống Tre, ấp Ngã Ba) cũng có ngôi đình thờ ông.
Mạc Cửu trị vì ở Trấn Hà Tiên từ năm 1708 đến năm ông mất 1735. Lãnh thổ trấn Hà Tiên lúc đó gồm 7 thôn xã : Hà Tiên, Phú Quốc, Lũng Kỳ, Cần Bột (Kampot), Vũng Thơm (Kompong Som), Rạch Giá, Cà Mau. Thời kỳ nầy tương ứng với hai đời Chúa Nguyễn là : Nguyễn Phúc Chu và Nguyễn Phúc Chú. Đây là thời kỳ khai sáng vùng đất Hà Tiên và được phát triển thịnh vượng.
B/ Mạc Thiên Tích :
Mạc Thiên Tích là con của Mạc Cửu, ông là người lai Trung Hoa và Việt Nam vì mẹ ông là người Việt, sinh năm 1718 tại Lũng Kỳ (Kampuchia), mất năm 1780 tại Vọng Các (Bangkok, Thái Lan).
Sau khi Mạc Cửu mất, con ông là Mạc Thiên Tích được chúa Nguyễn Phúc Chu phong Khâm Sai Đô Đốc Tướng Quân, đứng đầu Trấn Hà Tiên. Thời kỳ Mạc Thiên Tích trị vì ở Hà Tiên là thời kỳ phồn thịnh nhất với rất nhiều thành tựu về quân sự, chánh trị, kinh tế và văn hóa, đó là khoảng thời gian từ năm 1735 đến năm 1771. Trong thời kỳ nầy Mạc Thiên Tích đã góp phần rất to lớn trong công cuộc khai tiến mở rộng lãnh thổ về phía Nam của các chúa Nguyễn.
Trong thời gian từ năm 1771 đến năm 1773, Hà Tiên bị quân Xiêm chiếm đóng, Mạc Thiên Tích phải chạy ra Châu Đốc và sau đó về Trấn Giang (Cần Thơ). Vua Xiêm Taksin phong tướng Xiêm là Trần Liên (Chiêu Khoa Liên hoặc Tang Lieng hoặc Chen Lian là người Trung Hoa gốc Tiều Châu) trấn giữ Hà Tiên (1771 – 1773), trong hai năm nầy Hà Tiên bị quân Xiêm tàn phá, rất điêu tàn và đổ nát.
Năm 1773, vua Xiêm Taksin giảng hòa, trả lại Hà Tiên cho Mạc Thiên Tích, ông ủy quyền cho con là Mạc Tử Hoàng về tiếp nhận Hà Tiên. Tuy nhiên bắt đầu từ đây Hà Tiên bị ảnh hưởng nặng vì cuộc nội chiến giữa nhà Nguyễn và Tây Sơn. Năm 1775, quân Tây Sơn tiến công khiến chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần chạy vào Gia Định, Mạc Thiên Tích đưa các con Tử Hoàng, Tử Thảng và Tử Dung đến tiếp kiến chúa và ông được phong chức Đô Đốc Quận Công. Đến năm 1777 quân Tây Sơn chiếm Gia Định, tiến về Long Xuyên (tức vùng Cà Mau) và làm chủ vùng đất Hà Tiên, Mạc Thiên Tích cùng đoàn tùy tùng qua Xiêm. Sau đó vì bị vua Xiêm Taksin nghi ngờ nên Mạc Thiên Tích và đoàn tùy tùng đều bị bắt giam, ông tự tử chết và cả đoàn người đi theo đều bị giết chết cả (1780). Xem như kể từ năm 1771, Mạc Thiên Tích chạy giặc, rời khỏi Hà Tiên, sau đó đóng quân ở Trấn Giang (Cần Thơ) rồi qua Xiêm cho đến ngày tự vận mất bên Xiêm, không có lúc nào trở về đất Hà Tiên của ông cha nữa.
Sau nầy, triều Nguyễn có ban sắc phong cho Mạc Thiên Tích là Hà Tiên trấn Tổng Binh Đại Đô Đốc Quốc Lão Sùng Quận Công, Đạt Nghĩa Chi Thần.
Mạc Thiên Tích được thờ tại đền Mạc Công Miếu và đình Thần Thành Hoàng ở Hà Tiên.
Mạc Thiên Tích trị vì ở trấn Hà Tiên từ năm 1735 đến năm 1771, sau đó giai đoạn 1771 – 1773 tướng Xiêm Trần Liên thống trị Hà Tiên. Mạc Thiên Tích được vua Xiêm trả lại Hà Tiên và ông tiếp tục trị vì Hà Tiên trong giai đoạn 1773 – 1777, tuy nhiên trong thời gian nầy Mạc Thiên Tích vẫn đóng quân ở Trấn Giang (Cần Thơ), chỉ có con ông là Mạc Tử Hoàng, lúc đó làm Hiệp Trấn (tức phó Tổng Trấn) đang ở tại Hà Tiên để xây dựng lại Hà Tiên còn trong tình trạng đỗ nát vì chiến tranh. Thời kỳ Mạc Thiên Tích trấn thủ Hà Tiên tương ứng với ba đời Chúa Nguyễn : Nguyễn Phúc Chú, Nguyễn Phúc Khoát và Nguyễn Phúc Thuần.
C/ Giai đoạn 1777 – 1787:
Đây là giai đoạn loạn lạc vì chiến tranh Tây Sơn, chúa Nguyễn, chúa Trịnh và nước Xiêm (1777 – 1787) : Năm 1777 quân Tây Sơn chiếm Long Xuyên (tức vùng Cà Mau), Hà Tiên bị biến loạn, đến năm 1780 tướng nhà Nguyễn cử Chưởng Thăng (không rỏ họ) về trấn thủ Hà Tiên. Vua Xiêm Chakri mới lên ngôi hiệu là Phật Vương năm 1782, có mối quan hệ khá tốt với chúa Nguyễn nên cho tướng Xiêm tên Thát Xi Đa dẫn quân sang đóng ở Hà Tiên phòng quân Tây Sơn. Thời gian nầy quân Tây Sơn truy đuổi chúa Nguyễn Phúc Ánh đến tận Hà Tiên và ra các đảo thuộc vịnh Xiêm La (1784). Sau đó quân Xiêm giúp binh tướng để hộ chúa Nguyễn Phúc Ánh về nước, trong dịp nầy quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ cầm đầu đã đánh thắng quân Xiêm trong một trận lịch sử rất nổi tiếng, đó là trận Rạch Gầm, Xoài Múc tại Mỹ Tho (năm 1785). Sau trận nầy con của Mạc Thiên Tích là Mạc Tử Sanh phò chúa Nguyễn Phúc Ánh chạy về Hà Tiên và ra vịnh Xiêm La đi qua nước Xiêm.
Trong thời gian nầy Hà Tiên vẫn dưới ảnh hưởng của chúa Nguyễn, nhưng chúa Nguyễn chịu ảnh hưởng của vua Xiêm Phật Vương.
D/ Mạc Tử Sanh:
Mạc Tử Sanh là con của người thiếp, vợ thứ tư của Mạc Thiên Tích, sinh năm 1769, không rỏ nơi sanh, mất năm 1788 tại Hà Tiên. Từ thế hệ con của Mạc Thiên Tích trở về sau, tất cả các công tử và công nương đều là người Việt Nam.
Khi Mạc Thiên Tích mất ở bên nước Xiêm, Mạc Tử Sanh còn nhỏ (12 tuổi) nên mấy anh em đều không bị vua Xiêm Taksin giết mà bị đày đi nơi xa và được một quan Xiêm che dấu và nuôi nấng. Khi vua Xiêm Taksin bị lật đổ và bị giết chết, vua mới lên thay nên được vua Xiêm mới tên Chakri (tự là Phật Vương) cho ông đến chào chúa Nguyễn Phúc Ánh nhân dịp chúa qua nước Xiêm tránh quân Tây Sơn, lúc đó năm 1784, Mạc Tử Sanh được phong chức Tham Tướng Lý Chánh Hầu và được cho theo hầu chúa Nguyễn Phúc Ánh. Đến năm 1787 chúa cho Mạc Tử Sanh về Hà Tiên làm Lưu Thủ, qua năm sau 1788 Mạc Tử Sanh bệnh mất trong khi đang giữ chức Lưu Thủ Hà Tiên.

Mạc Tử Sanh được phong tặng Đặc Tiến Phụ Quốc Thượng Tướng Quân, Cẩm Y Vệ Chưởng Vệ Sự Đô Đốc Chưởng Cơ.
Mạc Tử Sanh được thờ tại đền Mạc Công Miếu và đình Thần Thành Hoàng ở Hà Tiên.
Mạc Tử Sanh trấn thủ ở Hà Tiên từ năm 1787 đến năm sau 1788.
E/ Giai đoạn 1788 – 1789:
Sau khi Mạc Tử Sanh mất (1788), chúa Nguyễn xin vua Xiêm Phật Vương cho Mạc Công Bính về Hà Tiên để lo việc xây dựng lại vùng đất Hà Tiên., tuy nhiên Mạc Công Bính chưa về kịp ngay lúc đó, nên người của nước Xiêm tạm thời trông coi công việc của trấn Hà Tiên, thời kỳ nầy kéo dài một năm.
Tướng nước Xiêm, tạm thời quản lý Hà Tiên trong giai đoạn 1788 – 1789.
F/ Mạc Công Bính:
Mạc Công Bính là con của Mạc Tử Hoàng, không biết năm sinh, mất năm 1792, không rỏ nơi sinh và nơi mất.
Năm 1789, Mạc Công Bính từ Xiêm về trước hết vào Gia Định yết kiến chúa Nguyễn Phúc Ánh và được phong chức Khâm Sai Cai Đội Lưu Thủ đạo Long Xuyên (ở Cà Mau), vì thế không về tới Hà Tiên, vua Xiêm Phật Vương không hài lòng nên Mạc Công Bính phải trở lại Hà Tiên, trước hết nhân đem hài cốt Mạc Thiên Tích và các con của ông lúc trước bị bức hại chết ở bên Xiêm về an táng tại núi Lăng Hà Tiên, sau đó Mạc Công Bính chỉ trấn thủ Hà Tiên từ 1791 đến 1792 mà thôi.
Mạc Công Bính trấn thủ ở Hà Tiên từ năm 1791 đến năm 1792.
G/ Giai đoạn 1792 – 1799:
Giai đoạn nầy Hà Tiên bị khuyết quan cai trị, chỉ có có cha con Trần Hanh và Trần Tô quản lý Hà Tiên một cách kiêu căng, tàn bạo, mất lòng dân nên vua Xiêm Phật Vương rất tức giận, ông cho Mạc Tử Thiêm nhận chức tước nước Xiêm và khiến về Hà Tiên thu hồi quan chức của Trần Tô.
H/ Mạc Tử Thiêm:
Mạc Tử Thiêm là con người thiếp của Mạc Thiên Tích, cùng một mẹ với Mạc Tử Sanh, không biết năm sinh, mất năm 1809.
Năm 1799 vua Xiêm cho Mạc Tử Thiêm và cháu là Mạc Công Du từ nước Xiêm về Hà Tiên để cho Mạc Tử Thiêm tiếp nối cai quản Hà Tiên. Mạc Tử Thiêm về nước ra mắt chúa Nguyễn Phúc Ánh và được phong chức Khâm Sai Tổng Binh Cai Cơ, trấn thủ Hà Tiên, năm 1805 thăng chức Chưởng Cơ. Đến năm 1807, vua Gia Long sai Mạc Tử Thiêm đi sứ sang Xiêm (lúc nầy chúa Nguyễn Phúc Ánh đã dẹp hết nhà Tây Sơn và nhà Trịnh, lên ngôi vua hiệu là Gia Long, thống nhất đất nước từ năm 1802). Năm 1809 Mạc Tử Thiêm bị bệnh mất.
Mạc Tử Thiêm trấn thủ ở Hà Tiên từ năm 1799 đến năm 1809.
I/ Giai đoạn 1809 – 1816:
Năm 1809 khi Mạc Tử Thiêm mất, các người cháu là Mạc Công Thê, Mạc Công Tài còn nhỏ, Mạc Công Du thì bị tội năm 1809, bị cách chức đến năm 1811 mới được tha, vì thế vua Gia Long không lập con cháu nhà họ Mạc làm quyền lĩnh chức Trấn nữa mà lại cử Ngô Y Nghiểm và Lê Tiến Giảng (có sách viết Lê Tiến Phúc) làm quyền án thủ trấn Hà Tiên, tuy nhiên hai ông nầy tham lam, hại dân nên bị cách chức. Năm 1810, Nguyễn Văn Thiện được cử làm Trấn Thủ và Nguyễn Đức Hội làm Hiệp Trấn, Dương Văn Châu được cử làm Tham Hiệp, ba người cùng cai quản Hà Tiên. Sau khi Trấn Thủ Nguyễn Văn Thiện chết, hai người phó là Nguyễn Đức Hội và Dương văn Châu chuyên coi việc trấn, nhưng hai người có hiềm khích, cùng gây rối loạn trong trấn, tin về vua Gia Long, cả hai đều bị trọng tội.
Đến năm 1811, vua Gia Long cử Trương Phúc Giáo làm Trấn Thủ HàTiên, Bùi Đức Miên (hay Bùi Đức Minh) làm Hiệp Trấn. Đến năm 1815 Trương Phúc Giáo cáo lão, xin về hưu. Thời gian nầy ở trấn Hà Tiên tình hình tốt đẹp dần, dân chúng về sinh sống ngày càng thịnh vượng. Hiệp Trấn Bùi Đức Miên được gọi về làm việc ở Bộ Lễ năm 1813, triều đình cử Lê Văn Nguyên làm Hiệp Trấn. Năm 1815 sau khi Trương Phúc Giáo về hưu, vua Gia Long bổ Nguyễn Văn Chiêm vốn đang trấn thủ Biên Hòa về làm Trấn Thủ Hà Tiên.
Đến năm 1816, Hiệp Trấn Lê Văn Nguyên bệnh chết. Trấn Thủ Nguyễn Văn Chiêm được gọi về làm Trấn Thủ Vĩnh Thanh.
J/ Mạc Công Du:
Mạc Công Du là con người thiếp thứ ba của Mạc Tử Hoàng, không biết năm sinh, không rỏ nơi sinh, mất năm 1833 tại Hà Tiên.
Năm 1780, khi Mạc Thiên Tích tuẩn tiết ở bên Xiêm, Mạc Công Du lúc đó có trong phái bộ của Mạc Thiên Tích nhưng vì còn nhỏ tuổi nên không bị vua Xiêm Taksin giết hại, tuy nhiên phải bị đày đi ở nơi vùng quê xa bên đất Xiêm. Đến năm 1799 Mạc Công Du theo chú là Mạc Tử Thiêm về Hà Tiên và được phong chức Cai Đội năm 1807. Đến năm 1809 Mạc Tử Thiêm chết, Mạc Công Du bị mắc tội và bị cách chức cho đến năm 1811 mới được tha, sau đó nhận chức Ất Phó Sứ và đi sứ sang Xiêm năm 1813. Đến năm 1816 Mạc Công Du được vua Gia Long phong chức Cai Đội Hiệp Trấn và năm 1818 chức Trấn Thủ Hà Tiên, từ năm 1816 cũng có Phạm Nhữ Đăng được phong làm Tham Hiệp trấn Hà Tiên cùng trấn thủ với Mạc Công Du. Mạc Công Du làm việc đến năm 1829 thì cáo về hưu.
Vào năm 1833 có xảy ra biến loạn Lê Văn Khôi chiếm thành Phiên An (Gia Định), lúc nầy có em Mạc Công Du là Mạc Công Tài đang làm trấn thủ Hà tiên, cùng với các con của Mạc Công Du là Mạc Hầu Hi, Mạc Hầu Diệu đều theo phe và lãnh chức tước của Lê Văn Khôi. Chỉ vài tháng sau, triều định dẹp loạn giặc Khôi, cha con Mạc Công Du đều bị bắt giải về Huế theo lệnh vua Minh Mệnh, trước khi lên đường, Mạc Công Du bị bệnh mất tại Hà Tiên (năm 1833). Lúc đó toàn thể con cháu họ Mạc đều bị bắt tội, người người phải đổi họ, trốn tránh di tản đi nơi khác.

Trong thời gian làm Trấn Thủ Hà Tiên, Mạc Công Du có lập một ngôi đền tên là Mạc Công Từ để thờ ông bà, lập bên trái chùa Tam Bảo, sau sự việc giặc Lê Văn Khôi, ngôi đền cũng đã bị bỏ hoang không ai dám chăm sóc, đến cả khi Mạc Công Du chết, ông cũng không được chôn cất vào ngôi mả đã định trước, và cũng không có mộ bia để tên tuổi. Tình trạng về ngôi mộ vô danh không ai biết và cũng không xác định được mộ của ông chính xác ở đâu đã kéo dài hơn một thế kỷ rưởi, đến năm 2006 con cháu họ Mạc mới xác định và xin phép đặt một mộ bia cho ngôi mộ của Mạc Công Du.
Mạc Công Du trấn thủ ở Hà Tiên từ năm 1816 đến năm 1829.
K/ Mạc Công Tài:
Mạc Công Tài là em của Mạc Công Du, con người thiếp thứ ba của Mạc Tử Hoàng, không biết năm sinh, mất năm 1833 tại Hà Tiên.
Mạc Công Tài được phong chức Cai Đội Quản Thủ Hà Tiên năm 1830. Ông tại chức cho đến năm 1832, qua năm sau 1833 có vụ biến loạn Lê Văn Khôi, vì theo phe của giặc Khôi nên ông bị triều đình kết tội, họ Mạc phải bị trọng tội nên Mạc Công Tài cùng với vợ đều bị tội và chết tại Hà Tiên.
Mạc Công Tài trấn thủ ở Hà Tiên từ năm 1830 đến năm 1832. Đến giai đoạn nầy thì mặc dù con cháu họ Mạc vẫn còn ở Hà Tiên, tuy phải đổi họ và trốn tránh, nhưng sau đó đến đời vua Thiệu Trị, năm 1846, nhà vua mới cho phục hồi Mạc Công Miếu cất lại nơi núi Lăng, cho người tìm con cháu họ Mạc để ban chức và lo việc thờ phụng, giữ gìn ngôi miếu. Tuy nhiên họ Mạc đến đây đã không còn người để làm Trấn Thủ như cha ông ngày trước. Hà Tiên hoàn toàn do triều đình nhà Nguyễn quản lý và cấp quan cai trị.
Từ năm 1832 trở đi, dưới thời vua Minh Mệnh, các dinh, trấn đã được đổi lại thành tỉnh, Đàng Trong có 6 tỉnh, vì thế người ta không dùng danh xưng « Đàng Trong » nữa mà dùng thành ngữ « Nam kỳ lục tỉnh » để chỉ miền Nam nước ta, đó là các tỉnh: Phiên An (năm 1836 đổi thành Gia Định), Biên Hòa, Định Tường, Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Danh xưng Tổng Trấn trở thành Tổng Đốc:Tổng đốc là viên quan đứng đầu một vùng bao gồm nhiều tỉnh thành, trông coi cả về dân sự và quân sự. Ngoài ra còn có chức Tuần phủ, là người lãnh đạo một tỉnh hoặc một bộ phận của tỉnh lớn, có quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm các chức quan dưới quyền ở địa phương mình quản lý, có quyền lãnh đạo về hành chính, tài chính, quân sự cùa tỉnh. Thí dụ từ đây ta có chức Tổng Đốc của tỉnh An Hà (tức An Giang và Hà Tiên) còn riêng về tỉnh Hà Tiên thì đứng đầu có quan Tuần Phủ, Quan Tổng Đốc là cấp trên của quan Tuần Phủ.
Lê Đại Cương:
Sinh năm 1771, tại Tuy Phước, Bình Định, mất năm 1847 tại Tuy Phước, Qui Nhơn.
Lê Đại Cương nổi tiếng văn võ song toàn, làm quan từ chức Tri huyện đến chức Tổng đốc, Thượng thư…Năm 1832 ông được giao làm Tổng đốc An Giang – Hà Tiên dưới thời vua Minh Mạng. Đến năm 1833 do việc giặc Lê Vãn Khôi nổi loạn, ông vì do trúng kế Lê Văn Khôi nên để cho giặc chiếm được Định Tường, An Giang, Hà Tiên, ông bị vua cách chức Tổng đốc An Hà. Sau đó vì phản công được giặc Lê Văn Khôi và giặc Xiêm xâm lược, ông được chức Tuần Phủ An Giang. Đến năm 1835 được quyền lĩnh ấn Tổng đốc quan phòng An Giang – Hà Tiên. Sau một lần nữa bị vua Minh Mạng gán tội, cách chức năm 1838, rồi lại được vua Thiệu Trị phục chức năm 1841 và đến năm sau ông xin về hưu. Lúc đó ông về quê Tuy Phước, Qui Nhơn lập chùa để tu và đến năm 1847 thì mất.
Lê Đại Cương làm Tổng Đốc An Giang – Hà Tiên từ năm 1832 đến năm 1833.
Trương Minh Giảng:
Sinh năm 1792 tại Bình Dương, Gia Định, mất năm 1841 tại An Giang.
Trương Minh Giảng đổ Cử Nhân năm 1819, làm quan qua các chức vụ liên hệ đến bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình. Năm 1832 ông được thăng chức Thượng Thư bộ Hộ, chủ trì việc biên soạn bộ « Đại Nam Thực Lục Chính Biên ». Năm 1833 Lê Văn Khôi nổi loạn chiếm thành Gia Định, Trương Minh Giảng cùng với tướng quân Phan Văn Thúy đem quân dẹp loạn, sau đó ông được lãnh chức Tổng đốc An Hà (An Giang và Hà Tiên). Ông giữ chức cho đến năm 1840, sau đó bàn giao chức Tổng đốc An Hà lại cho Dương Văn Phong. Trong thời gian nầy Trương Minh Giảng phải đối phó với sự chống đối của Chân Lạp và sự tấn công của quân Xiêm nên ông xin vua Thiệu Tri được rút quân về An Giang, việc nầy khiến ông bị vua khiển trách và bị trừng phạt, ông quá uất ức bị bệnh và qua đời năm 1841.
Đời vủa Tự Đức, Trương Minh Giảng được thờ tại đền Hiền Lương. Ông cũng được thờ tại nhà thờ họ Trương Việt Nam tại Hoa Lư, Ninh Bình.
Trương Minh Giảng làm Tổng Đốc An Giang – Hà Tiên từ năm 1833 đến năm 1840.
Dương Văn Phong :
Dương Văn Phong làm Tổng Đốc An Giang – Hà Tiên từ năm 1840 đến năm 1841.
Phạm Văn Điển :
Sinh năm 1769 tại Phú Vang, Thừa Thiên, mất năm 1842 tại Thất Sơn, An Giang..
Phạm Văn Điển tuy xuất thân là lính huấn luyện voi trận, nhưng về sau ông được thăng chức rất cao, được xem như là danh tướng. Ông từng được vua Minh Mạng cử đi dẹp các giặc ở nhiều nơi : « giặc biển » ở Thanh Hóa, phá giặc Xiêm ở vùng Quảng Trị, dẹp cuộc nổi dậy của Đinh Công Tiến ở Thanh Hóa…Đặc biệt Phạm Văn Điển có công lớn trong cuộc dẹp giặc Nông Vân Vân ở Tuyên Quang. Năm 1841 ông được tạm quyền giữ chức Tổng đốc An Hà. Đến năm 1842 ông thọ bệnh và mất tại quân thứ Thất Sơn, An Giang.
Sau khi mất, vua Thiệu Trị thương tiếc, phong ông là Tráng Vũ Tướng Quân, Tả Quân Đô Thống, Chưởng Phủ Sự.
Vua Tự Đức cho thờ ông ở đền Hiền Lương. Hiện tại ông được thờ cúng ở Phạm Tộc Từ Đường, thôn Dưỡng Mong, xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế.
Phạm Văn Điển làm Tổng Đốc An Giang – Hà Tiên từ năm 1841 đến năm 1842.

Nguyễn Công Nhàn :
Không biết năm sinh, không rỏ nơi sinh, mất năm 1867 tại Lấp Vò, Đồng Tháp.
Nguyễn Công Nhàn người gốc Phước Chánh, Biên Hòa, nhân việc dẹp loạn Di, Châu ở Khai Biên thuộc Hà Tiên (1838), được phong Vệ Úy. Năm 1840 ông đánh phá tan nhiều đồn quân Xiêm, được vua Minh Mạng khen thưởng và ban cho 4 chữ « Hùng Dũng Chi Tướng ». Năm 1842 ông lại hiệp sức với các tướng khác đánh đuổi được giặc Xiêm ở An Giang, Hà Tiên và được thăng Tổng Đốc An Hà. Năm 1843 ông xin vua cho khởi công đào kênh Tân Châu (kênh Vĩnh An). Năm 1844 ông bị mắc tội vu cáo nên cùng với một loạt các quan chức An Giang, Hà Tiên, tất cả đều bị cách chức. Sang năm 1845 ông được vua xét cho phục chức Hiệp Quản, được điều đi đánh giặc Chân Lạp ở vùng An Giang.
Đến đời Thiệu Trị, năm 1847, Nguyễn Công Nhàn được làm Lãnh Binh Gia Định. Sang đời Tự Đức, ông được thăng Đề Đốc An Giang (1856), rồi Tuần Phủ Hà Tiên (1848).
Từ năm 1859, Tổng Đốc An Hà là Cao Hữu Bằng chết ; Nguyễn Công Nhàn được thay thế với chức Hộ Lý Tổng Đốc An Hà. Đến năm 1861, ông đổi đi lãnh chức Tổng Đốc Định Tường, tuy nhiên lúc nầy quân Pháp chiếm thành Mỹ Tho, ông bị vu tội bỏ thành chạy nên lại bị cách hết chức tước. Tuy sau đó ông được vua Tự Đức phục chức nhưng ông bắt đầu sự nghiệp chiêu tập nghĩa quân chống Pháp ở vùng Lấp Vò, Đồng Tháp.
Hiện nay có ngôi đền thờ của Hùng Dũng Chi Tướng Nguyễn Công Nhàn do con cháu năm đời xây dựng phụng thờ tại xã Tân Thuận Tây, thành phố Cao Lãnh, Đồng Tháp rất khang trang và ấm cúng, hương khói quanh năm.
Nguyễn Công Nhàn làm Tổng Đốc An Giang – Hà Tiên từ năm 1842 đến năm 1844 (nhiệm kỳ đầu).
Nguyễn Văn Chương :
Sinh năm 1800 tại Phong Điền, Thừa Thiên (Huế), mất năm 1873 tại Hà Nội.
Nguyễn Văn Chương là tên cũ của Nguyễn Tri Phương, ông là một đại danh thần dưới nhà Nguyễn tuy ông xuất thân từ nhà nghèo khó và không có khoa bảng, nhờ ý chí tự lập nên ông làm nên cơ nghiệp lớn.
Năm 1835, ông cùng với Trương Minh Giảng vào Gia Định bình định thành công các vùng đất mới khai hoang. Đến năm 1837 bị dèm pha nên bị giáng chức, tuy nhiên năm 1839 được phục chức và được bổ nhiệm làm Tuần Phủ Quảng Nam, Quảng Ngãi (1840) canh chừng cửa biển Đà Nẳng. Sau đó vì công việc tốt đẹp ông được cử làm Tổng Đốc Vĩnh Long, Định Tường. Đến năm 1844 Nguyễn Văn Chương được phong Tổng Đốc An Hà (An Giang, Hà Tiên). Ông cùng với Doãn Uẩn đáng bại giặc Xiêm, ổn định vùng biên giới Tây Nam.
Vua Thiệu Trị khen ngợi ông và ban cho danh hiệu « An Tây Trí Dũng Tướng » (1847). Đến đời vua Tự Đức ông được vua chuẩn phê cải tên là Nguyễn Tri Phương, từ đó là tên chính của ông (1850).
Từ năm 1858, ông bắt đầu tham gia chống Pháp ở các nơi như : Gia Định, Phú Thọ, Chí Hòa (Kỳ Hòa). Sau khi ba tỉnh miền Đông bị chiếm, ông được cử ra Bắc xem xét việc quân sự ở Bắc kỳ (1862). Năm 1873, Nguyễn Tri Phương lãnh nhiệm vụ trấn giữ thành Hà Nội, trong trận đánh chiếm thành Hà Nội, quân Pháp dưới sự chỉ huy của đại úy Francis Garnier tấn công quá mạnh, con ông là Nguyễn Lâm trúng đạn chết, ông bị thương nặng, sau đó vì ông từ chối được cứu chữa, lại tuyệt thực nên ông mất vào năm 1873.
Hiện nay có đền thờ họ Nguyễn Tri ở Phong Điền, Thừa Thiên, Huế và ở Biên Hòa, Đồng Nai cũng có đền thờ ba vị Nguyễn Tri Phương, Nguyễn Duy (em của Nguyễn Tri Phương) và Nguyễn Lâm (con ông), đền thờ nầy xem như đinh Thành Hoàng của địa phương.
Nguyễn Tri Phương làm Tổng đốc An Giang – Hà Tiên từ năm 1844 đến năm 1845.
Tôn Thất Bạch :
Tôn Thất Bạch làm Tổng đốc An Giang – Hà Tiên từ năm 1845 đến năm 1847.
Doãn Uẩn :
Sinh năm 1795 tại Vũ Thư, Thái Bình, mất năm 1850 tại An Giang.
Doãn Uẩn sinh ra trong một gia đình khoa bảng, từ nhỏ ông được rèn cặp, năm 1828 ông đỗ Cử Nhân với hạng ưu. Sang năm sau ông bắt đầu sự nghiệp quan trường. Năm 1832 thụ chức Án Sát Vĩnh Long, do giặc Lê Văn Khôi chiếm được thành Vĩnh Long, ông cùng với các tướng thuộc nhóm Trương Minh Giảng sau đó thu phục được Vĩnh Long. Thời gian sau ông tham gia đánh giặc Xiêm và giúp vua Chân Lạp.
Năm 1834 vua Minh Mạng bổ ông làm Án Sát Thái Nguyên ở miền Bắc, cùng với Nguyễn Công Trứ trấp áp giặc Nông Vân Vân. Năm 1838 ông được thăng Tổng Đốc Định Yên và kiêm luôn chức Tuần Phủ Hưng Yên (miền Bắc). Đến năm 1840 Doãn Uẩn được đưa về miền Nam, giữ gìn biên cương Tây Nam. Năm 1844 giữ chức Tuần Phủ An Giang. Đến năm 1847 đời vua Thiệu Trị, ông được cử làm Tổng Đốc An Hà thay thế Nguyễn Văn Chương (tức Nguyễn Tri Phương). Vua phong cho ông hiệu An Tây Mưu Lược Tướng. Chính trong thời gian nầy Doãn Uẩn cho xây dựng chùa Tây An tại chân núi Sam, Châu Đốc.
Năm 1850 Doãn Uẩn mất bệnh tại An Giang và được đưa về quê an táng.
Vua Tự Đức truy tặng cho ông hàm Hiệp Biện Đại Học Sĩ và được đặt bài vị tại đền Hiền Lương cùng với 39 danh thần nhà Nguyễn khác.
Doãn Uẩn làm Tổng Đốc An Giang – Hà Tiên từ năm 1847 đến năm 1850.
Cao Hữu Bằng :
Còn có tên là Cao Hữu Dực.
Không rỏ năm sinh, năm mất., chỉ biết ông gốc Phong Điền, Thừa Thiên, Huế.

Năm 1825, ông đỗ Hương Tiến, làm đến Thượng Thư bộ Binh, rồi cùng Doãn Uẩn quản lý cơ vụ thành Trấn Tây (Nam Vang) vùng đất của Campuchia ngày nay. Có lần phạm lỗi sơ thất, ông phải giáng làm Viên Ngoại Lang bộ Binh, nhưng sung chức Hiệp Tân.
Năm 1848, đầu đời Thiệu Trị, ông quyền lĩnh Bố Chánh An Giang. Rồi vì việc thất thủ thành Trấn Tây, ông lại bị giáng chức, nhưng vẫn quyền lĩnh Án Sát An Giang. Ít lâu, lại bổ làm Tuyên Phủ Tây Ninh, rồi thăng Tổng đốc An Hà. Khi mất, được truy tặng Hiệp Biện Đại Học Sĩ.
Cao Hữu Bằng làm Tổng Đốc An Giang – Hà Tiên từ năm 1850 đến năm 1859.
Nguyễn Công Nhàn :
(Xem phần Nguyễn Công Nhà phía trên)
Nguyễn Công Nhàn làm Tổng Đốc An Giang – Hà Tiên từ năm 1859 đến năm 1861 (nhiệm kỳ cuối).
Phan Khắc Thận :
Sinh năm 1798 tại Sơn Tinh, Quảng Ngãi. Mất năm 1868 tại quân thứ khi ông đang tiểu trừ giặc Ngô Côn ở vùng Thái Nguyên, Lạng Sơn.
Ông đỗ Tú Tài đời vua Minh Mạng (1825), đời vua Thiệu Trị ông nhận chức quyền nhiếp phủ Tây Ninh. Tại đây ông có công dẹp loạn Đinh Thân. Năm 1844 Phan Khắc Thận được cử làm Án sát Bình Định và Vĩnh Long rồi thăng Tuyên phủ sứ Tây Ninh và sau đó Bố chánh sứ Nam Định, Hà Nội.
Năm 1852 đời vua Tự Đức, ông có công dẹp loạn quân phỉ cướp phá Lạng Sơn và được thăng cấp. Đến năm 1858, ông được cử đem quân chống cự quân Pháp tấn công Đà Nẳng, bị thua trận, ông bị giáng ba cấp..Khi quân Pháp đánh Gia Định, ông được vua cử làm Tuần Phủ An Giang, dẹp được loạn Khmer ở Ba Xuyên nên ông được thưởng công, thăng làm Tổng đốc An Hà (1859).
Năm 1861, Định Tường thất thủ, Phan Khắc Thận cùng với các tướng khác, tổ chức chiêu binh, xây đồn lũy chống quân xâm lược.
Năm 1862, do việc triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước với Pháp, Phan Khắc Thận vừa bị áp lực của Pháp và của cả triều đình Huế để truy bắt và giao nạp hai thủ lĩnh chống Pháp là A Soa (một người Khmer có tên Ong Bướm) và Thủ Khoa Huân (Nguyễn Hữu Huân). Cuối cùng hai thủ lĩnh chống Pháp nầy đều bị bắt và bị giao nộp cho cho Pháp.
Phan Khắc Thận làm Tổng Đốc An Giang – Hà Tiên từ năm 1861 đến năm 1867.
Bảng tóm tắt giai đoạn các quan quản thủ Hà Tiên từ 1708 đến 1867:
Họ và tên: Giai đoạn trấn thủ Hà Tiên / Chú thích
Mạc Cửu: 1708 – 1735
Mạc Thiên Tích: 1735 – 1771
Trần Liên: 1771 – 1773 / Xiêm chiếm Hà Tiên
Mạc Thiên Tích: 1773 – 1777 / Mạc Tử Hoàng làm phó Tổng Trấn
Chiến tranh Tây Sơn: 1777 – 1787
Mạc Tử Sanh: 1787 – 1788
Tướng Xiêm: 1788 – 1789 / Ảnh hưởng Xiêm
Mạc Công Bính: 1791 – 1792
Không có quan cai trị: 1792 – 1799 / Ảnh hưởng Xiêm
Mạc Tử Thiêm: 1799 – 1809
Ngô Y Nghiểm: 1809 – 1810 / Nhà Nguyễn bổ nhiệm
Nguyễn Văn Thiện: 1810 – 1811
Trương Phúc Giáo: 1811 – 1815
Nguyễn Văn Chiêm: 1815 – 1816
Mạc Công Du: 1816 – 1829
Mạc Công Tài: 1830 – 1832
Lê Đại Cương: 1832 – 1833 / Nhà Nguyễn bổ nhiệm
Trương Minh Giảng: 1833 – 1840
Dương Văn Phong: 1840 – 1841
Phạm Văn Điển: 1841 – 1842
Nguyễn Công Nhàn: 1842 – 1844 / Nhiệm kỳ đầu
Nguyễn Tri Phương: 1844 – 1845
Tôn Thất Bạch: 1845 – 1847
Doãn Uẩn: 1847 – 1850
Cao Hữu Bằng: 1850 – 1859
Nguyễn Công Nhàn: 1859 – 1861 / Nhiệm kỳ cuối
Phan Khắc Thận: 1861 – 1867
2-1.jpg


Lãnh thổ trấn Hà Tiên vào năm 1757: vùng màu nâu, ranh giới phỏng theo tư liệu. Đây là giai đoạn dưới thời Mạc Thiên Tích, trấn Hà Tiên có diện tích lớn rộng nhất, diện tích lên đến hàng chục ngàn km².
3-1.jpg

Lãnh thổ thành phố Hà Tiên vào năm 2018: vùng màu đỏ, diện tích thu nhỏ lại khoảng chừng 100 km²
4-1.jpg

Một trong hai bức tượng tướng quân đứng hai bên ngôi mộ của Mạc Cửu, núi Bình San, Hà Tiên. Hình chụp từ sau lưng tượng, nhìn về phía cửa sông Giang Thành ra biển. Hình do một người lính Hải Quân Pháp tên Roland Drosson đóng quân tại Hà Tiên chụp vào năm 1953. (đây là hình bức tượng gốc nguyên bản từ lúc lập mộ)
5-2.jpg

Ngôi mộ Mạc Thiên Tích, núi Bình San, Hà Tiên vào năm 1953. Hình do một người lính Hải Quân Pháp tên Roland Drosson đóng quân tại Hà Tiên chụp.
6.jpg

Quang cảnh đền Mạc Công Miếu (Hà Tiên), nơi thờ các quan quản thủ Hà Tiên trong gia đình họ Mạc. Hình: Trần Văn Mãnh, năm 1994



-------------------------------------------------
1 ý kiến khác
● Vậy có biết cương vực của TRẤN TÂY THÀNH có từ trước khi thực dân Pháp xâm lược 6 tỉnh Nam Kỳ ( 1867 ) trở về thời Chúa Nguyễn Phúc Chu là như thế nào không vậy ?
* Nếu không có các vị chúa và vua nhà Nguyễn cùng với thực dân Pháp thì bây giờ không còn có nước Campuchia nữa !
Vì nươc Campuchia đã bị vương quốc Xiêm La ( tức Thái Lan ngày nay ) xoá sổ từ lâu rồi ! ( từ thời đầu thế kỷ thứ 18 )
Hoặc bị nhóm người Minh Hương cướp đoạt và đồng hóa hết từ lâu lắm rồi ! Đến nay thì cũng trở thành một quốc gia Singapore thứ 2 !
● TRẤN TÂY THÀNH có diện tích chỉ bằng 1/4 diện tích của Campuchia ngày nay mà thôi ! Phần còn lại bị Thái Lan nhập vào nước của Thái Lan hết !
● Khi thực dân Pháp xâm lược miền Nam của Việt Nam và cả trấn Tây Thành thì họ mới xây dưng lại nhà nước Campuchia và đánh chiếm lại toàn bộ lãnh thổ của nước Campuchia như ngày hôm nay nay !
Đường biên giới với VN như ngày hôm nay cũng do bọn thực dân Pháp lập nên ●
Ta cũng nên biết rằng vào đầu thế kỷ thứ 18 vua Nặc Ông của nước Chân Lạp ( là nước Campuchia hiện nay ) không thể nào chống lại với đội quân xâm lược của Xiêm La lãnh thổ bị chúng cướp quá nhiều v v Mới xin NỘI THUỘC vào nước Đại Việt .
Để chúa Nguyễn Phúc Chu đưa quân qua can thiệp và gìn giữ lãnh thổ của nước Chân Lạp
Đến đời con thì truyền ngôi lại cho người con trưởng lên nối ngôi thì bị người em trai làm phản . Người này câu kết với quân của Xiêm La đánh chiếm một phần ở miền đông bắc của Campuchia và sau đó lại nhập vào lãnh thổ của nước Xiêm La ( nước Xiêm La lại là do người Thái ở Vân Nam và Lưỡng Quãng chạy sang và cướp quyền cai trị từ lâu ở khu vực này )
Bọn chúng luôn xua quân đánh chiếm vị vua anh không còn khả năng giữ được nên mới bàn giao lại cho chúa Nguyễn cai bảo vệ và cai quản . Cho nên chúa Nguyễn mới đặt tên lại là trấn Tây Thành ●
● Vùng đất phía nam và miền Trung của Campuchia ngày nay cho đến vùng Thất Sơn thuộc Bảy Núi của tỉnh Long Châu Hà ( nay là tỉnh An Giang ) là Vương quốc cổ của người Campuchia . Vào năm 326 TrCN trong chuyến thâm hiểm vùng đất phương đông vị hoàng đế Alexander đại đế có đến tận kinh đô của nước này ! Kinh đô này nằm về hướng Tây -Nam và cách TP Nam Vang khoảng hơn 200 km . Nước này được Alexander Đại đế ghi lại trong quyển hải trình là Sina . Nếu viết theo hệ Pháp ngữ là China cho nên vùng đất của bán đảo DôngDương mới có tên trên bản đồ thế giới là China . Còn bọn TQ không hiểu biết gì nên mới lấy từ China này làm tên thương hiệu cho quốc gia của minh !
Do chiến tranh triền. miên nên họ bỏ đi khắp nơi để mà lẫn tránh chính vì thế mà vùng này trở nên ít người cư ngụ v v
Cho nên những nhà nghiên cứu thiếu hiểu biết mới khẳng định định là Vương quốc Campuchia mới thành lập vào khoảng thế ký thứ 7 . Đây là nước bắc Chân Lạp
 
Sửa lần cuối:

Chủ đề tương tự

Back
Top Bottom