Truyền thuyết về tổ sư Huyền Quang

Thích Đông Lỗ

Trụ trì chùa Bề Đề
Bài viết
311
Xu
17,260
Vào thời nhà Trần, có một người học trò trẻ tuổi ở xứ Bắc tên là Huyền Quang.Nhà chàng không đất cắm dùi, nhưng cha mẹ chàng thì cố công cố sức làm thuê làm mướn các nơi để nuôi con ăn học.Khi Huyền Quang đến tuổi lấy vợ, cha mẹ dạm cho một cô gái, con một nhà khá giả trong vùng.
Trải mấy năm trời, chàng đã từng sêu tết và đi làm rể bên nhà vợ khá là vất vả.Cho đến ngày gia đình sắm sanh lễ vật xin cưới thì đột nhiên bên nhà gái trở mặt, trả lễ lại và từ hôn.Huyền Quang lấy làm buồn lòng vì thói đời tráo trở, chàng càng đau lòng hơn khi thấy cô gái ấy thuận lấy người cháu họ một viên An phủ sứ.
Sau đó,cha mẹ chàng lại tìm cho con một đám khác, nhưng cuộc nhân duyên lần này cũng dở dang, chỉ vì nhà gái chê nhà trai không có mả làm nên, không phải là nơi nương tựa.Vì vậy cho đến năm hai mươi tuổi, Huyền Quang vẫn mộtthân một mình.
Từ khi thất vọng về đường tình duyên, Huyền Quang lại càng bấm chí về đường kinh sử.Năm hai mươi hai tuổi, chàng thi đậu ở trường thi quê nhà, rồi vào thi Đình đậu luôn Trạng nguyên.
Nghe tin Huyền Quang đậu Trạng, có mấy tay phú hộ ở quanh vùng bắn tin có con gái đến tuổi lấy chồng kèm theo cả một tư cơ đồ sộ.Một ông quan lớn ở kinh kỳ cũng mời quan tân khoa về thái ấp mình để xem mặt cô con gái yêu tuổi vừa đôi tám.Tiếp đó, ngày chàng vào kinh bái mạng để nhận chức, một viên Nội giám đến gặp riêng chàng và rỉ tai:
-Hoàng hậu đang kén phò mã cho Công chúa đấy.Nếu quan Trạng muốn, thì việc tốt đẹp nhất định phải thành.
Thấy tình đời như vậy, Huyền Quang than:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗTrạng tám nghìn nhân duyên.
Than đoạn, chàng nguyện suốt đời sẽ không lấy vợ.Thế rồi người ta thất chàng nhất quyết từ chối mọi hứa hẹn tốt đẹp.Nhưng cuộc đời danh vọng của Huyền Quang cũng không làm cho chàng vui lòng.Nhìn thấy những cảnh tượng xấu xa trong đám quan trường, chàng lại càng ghê tởm.Từ đấy Huyền Quang tỏ ra chán đời.Làm quan chưa được bao lâu, chàng đã đệ đơn lên vua xin từ chức để đi tu.Bấy giờ cha mẹ nàng đã nối gót nhau qua đời.
Vua không thể nào bắt ép chí của chàng được.Huyền Quang tu hành rất chăm chỉ.Chẳng bao lâu, chàng đã thông thuộc tất cả kho tàng kinh sách của nhà Phật.Rồi đó, nhờ có học vấn không ai bì kịp,Huyền Quang được nhà vua ban cho danh hiệu Quốc sư.Vua còn cho chàng trông nom viện Trúc Lâm và cho Trụ trì ở một ngôi chùa lớn cai quản hàng mấy nghìn Tăng Ni.còn ít tuổi như chàng được trở thành một bậc Giáo chủ, người đời bấy giờ coi là việc hiếm có.
Hồi bấy giờ vua Anh Tông mới lên ngai vàng.Thấy vị Tổ Trúc Lâm là một người cón ít tuổi,Vua không tin là có thể chịu đựng nổi sự diệt dục khổ hạnh. “ Cứ đưa đến một cô gái đẹp, nhất định thế nào thầy cũng sa ngã”.Nghĩ vậy,Vua có ý định thử xem đạo đức của vị trẻ tuổi này như thế nào.Nhân mấy ngày Hoàng hậu se mình, Vua cho triệu Tổ về kinh làm lễ cầu siêu.Sau mấy đêm ngày công việc cầu siêu đã xong, trước khi chàng trở về chùa, Vua sai ban cho 10 lạng vàng để đền công khó nhọc.Huyền Quang không tiện chối từ, đành phải cầm lấy, nhưng chàng đâu có ngờ rằng cái bẫy đã bắt đầu giương ra để đợi người nhẹ dạ.
Thế rồi sau đó ít lâu,Vua cho một cung nữ nhan sắc xinh đẹp, tên là Điểm Bích, tìm cách đến chùa, nơi Huyền Quang trụ trì, bảo phải quyến rũ cho bằng được.Vua còn dặn Điểm Bích phải làm sao lấy ở sư thầy ít nhất là một lạng vàng đưa về làm tang chứng.
Lại nói chuyện Huyền Quang,hôm ấy nghỉ tại một thiền trai cất trên một ngọn đồi, cách viện Trúc Lâm chừng vài dặm. Đây là một gian nhà nhỏ, rất tĩnh mịch mà Vua sai xây cho chàng để nghỉ ngơi sau những ngày giảng kinh mệt nhọc.Vào khoảng tắt mặt trời, chú tiểu đưa vào một cô gái vẻ mặt hốt hoảng nhợt nhạt, áo xống tơi tả.
-Bạch thầy, người này bị cướp đuổi vừa gọi cửa kêu cứu.
Đó là Điểm Bích, lúc này đã cải trang thành một cô gái quê mùa.Nàng khóc sướt mướt, một hai xin nhà chùa cho ở trọ đêm nay.Nàng bịa ra câu chuyện bị côn đồ đuổi và phải chạy trốn vất vả như thế nào làm cho Huyền Quang không thể từ chối được.Cuối cùng theo lệnh của chàng, chú tiểu sắp xếp cho Điểm Bích một chỗ nghỉ ở phía ngoài thiền trai.
Sự việc vừa xảy ra làm cho Huyền Quang thấy trong lòng không được yên tĩnh.Chàng để cho chú tiểu đi nghỉ, rồi giở quyển kinh ra tụng niệm mãi tới khuya.Sắp sửa đặt lưng xuống giường, chàng bỗng nghe tiếng rên rỉ của người đàn bà.Chàng lại phải đánh thức chú tiểu dậy xem thử thế nào.Khi nghe nói người đàn bà muốn xin được vào nằm phía trong thiền trai, vì ở ngoài không ngăn được sự sợ hãi, Huyền Quang lấy làm bối rối.Nhà thì hẹp, chỉ có ba gian, nhân thân chỉ có hai thầy trò, các tăng chúng đều ở xa không tiện gọi.
Suy nghĩ giây lát, Huyền Quang bất đắc dĩ cho người đàn bà vào ở chỗ tiếp khách, còn mình thì lui vào trai phòng khóa cửa lại.Nhưng vừa chợp mắt đi được một lúc, đã lại nghe tiếng rên rỉ ở phía bên ngoài.Chàng lại ngồi dậy, cầm lấy tràng hạt và quyển kinh. Nhưng khi bước ra khỏi trai phòng, qua ánh đèn dầu le lói, chàng đã thấy người đàn bà nằm lõa lồ trên bộ ván.Chàng bước vội trở vào và quyết định ngồi trên giường tụng niệm cho tới sáng để tránh sự cám dỗ.Không ngờ giữa lúc những tiếng tụng niệm vừa cất lên thì Điểm Bích ở đâu đã sán lại ngồi bên cạnh chàng, nói những câu cảm ơn nhưng lại xen vào nhiều lời khêu gợi.
Biết người đàn bà này đến đây có mục đích không lương thiện, Huyền Quang liền nghiêm nét mặt lại:
-A-di-đà-Phật.Nàng là ai? Tại sao tìm đường vào đây để quấy rối những người tu hành?Nếu không mau mau cải tà quy chính, ta sẽ hô hoán lên cho mọi người đến cầm lá dắt ra khỏi tu viện.
Thấy Huyền Quang không phải là hạng người dễ quyến rũ, Điểm Bích đành phải thay đổi thái độ.Nàng chuyển sang bộ mặt rầu rĩ và bịa ra câu chuyện để gợi lòng trắc ẩn.
-Thiếp vốn là con nhà thế phiệt.Bố thiếp làm quan một huyện ở vùng biển.Mùa tháng năm vừa rồi, nhân đi thu thuế được ba nghìn quan, cho dân phi đài tải về kinh.Không ngờ bị bọn cướp đường đón lấy mất cả.Quan trên thương tình cho khất đến cuối năm.Hiện nay bố thiếp thu góp tư trang mới được chừng mộtnữa.Bởi vậy thiếp phải đi khắp đó đây xin các nhà từ thiện, kẻ ít người nhiều để bù vào số thiếu.Hôm nay đánh bạo đến đây xin Hòa thượng rũ lòng thương xót, quyên cấp cho ít nhiều.Nhưng thấy cảnh chùa tôn nghiêm, nếu nói thật chưa chắc đã được, vì vậy phải dùng mẹo nhỏ để gặp Hòa thượng, sau đó mới tỏ bày mục đích.Dám xin Hòa thượng mở lượng hải hà cứu vớt lấy bố thiếp và cả nhà thiếp.Thiếp nguyện đưa thân nữ tỳ hầu hạ suốt đời.
Nghe nàng sụt sùi kể lể, Huyền Quang không ngăn được cảm động.Chàng vội trả lời:
-Nàng đừng có lo lắng gì cả.Ngày mai ta sẽ tiến triều,tâu với Vua xin tha tội cho cha nàng.
Sợ Huyền Quang về triều thì việc của mình không đạt, Điểm Bích lại nói:
-Bạch Hòa thượng, việc của bố thiếp còn may là chưa đến tai Thánh thượng.Hòa thượng về tâu giúp cho thật là công đức vô biên, nhưng thiếp không muốn vì việc nhà thiếp làm phiền Hòa thượng phải xuống núi nhọc sức.
Huyền Quang sực nhớ tới mười nén vàng của Vua còn bày ở trai phòng.Chàng vội lấy ra đưa cho người đàn bà mà rằng:
-Ta biếu nàng tất cả,nàng đưa về mà chuộc tội cho cha!
Lại nói chuyện khi trở về cung,Điểm Bích liền nộp mười nén vàng và tâu dối với vua rằng mình đã cám dỗ được con mồi. Để vua tin, nàng còn đọc lên một bài thơ yêu đương nói là của Huyền Quang đã ngâm tặng mình trước khi phá giới:
Vằng vặc trăng mai ánh nước,
Hiu hiu gió trúc ngâm sinh.
Người vừa tươi tốt, cảnh vừa lạ,
Mâu Thích Ca nào chẳng hữu tình.
Nghe xong câu chuyện và nhìn thấy mấy nén vàng, nhà vua thở dài hối hận:
-Chao ôi! Bậy quá!Ta đã làm hại một vị tu hành trẻ tuổi.Tự dưng vô cớ đi gài bẫy, nhất định con chim khó thể tránh được.Biết làm thế nào bây giờ?
Nghe nói thế, một viên quan ghé vào tai Vua hiến kế:
-Tâu Bệ hạ,xin Bệ hạ cho thiết lập một lễ cúng Phật, dọn toàn cỗ mặn rồi mời Thầy về làm lễ.Nếu quả là Thầy còn trong sạch thì chư Phật sẽ độ cho cỗ mặn hóa ra chay, nhược bằng đã hư hỏng rồi thì chẳng bao giờ được độ.
Vua cho là phải, bèn hạ lệnh cho gọi Huyền Quang về triều để chàng làm một lễ chay trọng thể vào dịp rằm thánh bảy sắp tới.Vua còn bắt quân hầu dựng mộtđàn tràng nguy nga, các rạp đều trần thiết toàn bằng lụa hoàng quyến.Trái hẳn với tục lệ nhà chùa, hôm bước vào chính lễ,Vua ra lệnh cho giết bò và lợn, dọn toàn cỗ mặn.
Khi sắp bước vào rạp, Huyền Quang biết nhà vua cố ý làm nhục mình.Các mâm cỗ mặn tanh tưởi bày trên đàn kia, nếu không phải là một sự xỉ vả thì còn gì nữa.Lụa hoàng quyến nói lái lại rõ ràng ám chỉ hai tiếng “Huyền Quang”.Chàng bèn ngửa mặt lên trời lớn tiếng khấn:
-Kẻ đệ tử này nếu có điều gì bất chính,xin chư Phật cho đày xuống A-tì địa ngục,còn nếu không thì xin cho những cỗ mặn kia hóa thành chay tất cả!
Tự nhiên một trận gió mạnh nổi lên, cát bụi mù mịt, trời đất tối sầm cả lại.Mộtchốc gió tan,mọi người nhìn lên đàn tràng,lạ thay,tất cả các mâm cỗ mặn đều biến thành cỗ chay tinh khiết thơm thơ,mọi mùi tanh tưởi đều đã bị quét sạch từ bao giờ.Huyền Quang thủng thỉnh bước lên đàn tràng giữa tiếng reo hò của Chúng Tăng và mọi người.Vua Anh Tông được tin ,lập tức ra lệnh bắt Điểm Bích bỏ ngục để chờ ngày phán xử,rồi xa giá tới gặp Huyền Quang tạ lỗi.Câu nói đầu tiên của Huyền Quang là xin vua tha tội cho Điểm Bích.[13]
Khảo dị 1:
Theo lời kể của một số người Bắc Ninh khác thì phần sau câu chuyện có khác với truyện vừa kể:
Hồi ấy nhà vua ngự giá đi chơi có tặng Huyền Quang hai mươi lạng vàng.Việc nhận vàng làm cho nhà vua nghi ngờ tấm lòng cao thượng của Huyền Quang.Lúc về cung Vua cho gọi các phi tần, cung nữ xem ai có thể nhận nhiệm vụ thử thách vị tổ trẻ tuổi.Không một ai chịu đi cả.Sau cùng có Công chúa thứ ba-một cô gái học giỏi-nhận lời.Cũng như truyện trên,Công chúa cải trang tìm đến chùa,bịa ra câu chuyện cướp đuổi,xin trọ.Huyền Quang cho ở phía ngoài.Sự khiêu khích lần đầu của Công chúa không có hiệu quả.Trongchùa,Huyền Quang tụng hết quyển kinh này sang quyển kinh khác.Ngoài này, Công chúa dùng bút giấy ghi chép tất cả.Sáng hôm sau,Huyền Quang lục thúng khảo của Công chúa thấy những bản ghi chép không xót câu nào thì ngạc nhiên tưởng là tiên,bèn xiêu lòng.Sau đó Công chúa xin về,trong thúng có hai mươi lạng vàng của Huyền Quang tặng.
Vua có đủ chứng cớ, cho đòi Huyền Quang về bắt làm tờ tự thú.Có câu:
Tụng ba mươi sáu quyển kinh,
Bụi trần chưa sạch,tơ tình còn vương.
Nay nhờ ơn lệnh quân vương,
Rộng dung ân xá đội ơn nghìn trùng.
Các quan đều quỳ lạy xin tha cho Huyền Quang.Một người hiến kế cho vua như trên đã kể.Nhưng phép của sư còn thiêng,bao nhiêu cỗ mặn đều hóa chay cả.Vua tha cho, nhưng Huyền Quang cũng không được thành Phật.Có câu ngạn:”Từ Thức tu không thành tiên, Huyền Quang tu không nên Phật”.[14]
Trong sách “Huyền Quang Hành”[15]có kể truyện Huy Huyền Quang,nội dung tương tự với lời kể trên Đại thể là:
Sư Huyền Quang nổi tiếng chân tu, được vua Trần Minh Tông kính trọng,ban mười lạnh vàng.Nhưng sau đó Vua sai Nguyễn Thị Bích đi thử,dặn lấy cho được vàng làm tin.Lúc đầu Sư cự tuyệt không cho vào,nhưng vì nàng dùng lời nói khéo khẩn cầu, nên Sư cho ở phía ngoài Tăng phòng. Đêm khuya gió mát, trăng sáng như ban ngày.Sư ngủ không được,bèn đi tản bộ quanh chùa, thấy khách hơi lõa lồ,bèn bỏ đi.Nhưng rồi Sư lại trở lại, không giữ được lòng nữa,bèn làm thơ tỏ tình. Đến lượt cô gái cự tuyệt,khiến Sư phải cho vàng mới xong.Thấy vàng, Vua bèn gọi Sư về bày đàn thuyết pháp.Trông thấy bức màn bằng lụa quyến nhuộm vàng,Sư nói: “Hoàng quyến nhuộm sắc tức là ta”. Đoạn sau, không có chuyện cỗ mặn hóa thành chay.[16]Còn có câu ca truyền lại:
Dù mà cạn nước Bình Than,
Rửa làm sao sạch tiếng oan cho thầy.[17]
Về nàng Điễm Bích, cũng có truyện riêng:
Tương truyền nàng là con một người đàn bà ăn xin ở huyện Đường Hào (Hải Dương).Sinh ra không có cha, người mẹ đem nàng cho một nhà giàu làm con nuôi,mang tên là Tam Nương (nàng Ba) và được theo đòi bút nghiêng.Dần dần học rộng, giỏi thơ văn, được vua Trần Anh Tông kén làm cung nữ, có lúc Vua vì trọng tài gọi nàng là “gái thần đồng”.Vì vu oan cho Huyền Quang, Điểm Bích sau đó bị giáng làm nữ tỳ hầu ở chùa trong cung Cảnh Linh.[18]Trong “Vũ Trung tùy bút”, Phạm Đình Hổ có nói rằng, hồi còn bé ông có được nghe kể chuyện về Điểm Bích và người ta còn đào được mộ nàng.
Khảo dị 2:
Truyện kể về vị Tổ thứ ba của chi phái Trúc Lâm là nhà sư Huyền Quang (tên thực là Lý Đạo Tái),có đoạn kể lại việc vua Trần thử thách sự trì giới của nhà sư như sau:
“Khi ấy Sư sáu mươi tuổi.Một hôm nhà vua bảo thị thần và Tăng đạo rằng:
-Người ta sống ở trong trời đất, mang khí âm, ôm khí dương, ăn thì thích vị ngon, mặc thì thích màu đẹp, ai nấy đều có tình dục.Bọn chúng ta mà ngăn hãm cái mặt ham muốn ấy chính là có thể dốc lòng phụng đạo, như thế đã đành đi một lẽ vậy.Cớ sao vị Lão tăng Huyền Quang từ trước đến nay, chỉ cómột lẽ sắc sắc không không, như nước chẳng gợn sóng, như gương chẳng bụi mờ. Đó là vì ngăn hãm tình dục chăng?Hay là vì không có tình dục chăng?
Có một viên quan từ bên cạnh tâu rằng:
-Vẽ hổ chỉ vẽ được da, khó vẽ được xương.Biết người chỉ biết được mặt, khó biết được lòng.Xin hãy thử để xem như thế nào là đúng.
Nhà vua nhìn xem ai, thì đó là một học sĩ trẻ, Lưỡng quốc Trạng nguyên, họ Mạc tên là Đĩnh Chi.Nhà vua cho ý kiến là phải.Bèn im ắng không hề động đạc, không lộ góc cạnh, ngầm có ý chọn lấy trong đám cung nữ một người dưới hai mươi tuổi, có cái nõn nà như Phi Yến[19],có cái đẹp khéo như Điêu Thuyền[20].Có một cung nhân tên là Điểm Bích, hiệu là Tam Nương…Nhan sắc rất đẹp,tính lại ham học,cửu lưu tam giáo không có cái gì là chẳng thông hiểu…Điểm Bích khi tuổi mới lên 9, đã được tuyển vào trong cung làm nữ cung nhân…Thơ trường thiên ngũ ngôn cứ mở miệng là thành chương, thơ quốc ngữ lại càng giỏi…Nhà vua khen rằng đó là nữ thần đồng…Khi ấy nhà vua triệu vào nội điện,ban cho bút trát và bảo rằng:
-Ông sư ấy vốn không có sắc dục, tính nết cương phương, giới hạnh rất cao.Nàng có nhan sắc, giỏi ngôn từ,lại thông kinh sử.Nàng hãy đến thử thách ông sư ấy, nếu thấy động tình quyến luyến thì dỗ dành xin được vàng mang về đây làm chứng cớ.Nếu dối trá thì có tội đấy.Nàng phải kính cẩn mà làm theo ý chỉ này của trẫm.
Thị Bích nhận lệnh chỉ của vua ra đi, đem theo một nữ tỳ. Đến (chùa) Vân Yên, vào gặp một bà vãi già,khai quê hương và căn cước, xin xuất gia tu hành học đạo, nhờ gửi lời lên Quốc sư (Huyền Quang).Bà vãi già thường sai Thị Bích sớm chiều dâng nước chè lên Quốc sư.Sư thấy con người này khi động khi dừng,có cái vẻ Hằng Nga trên mặt trăng lả lơi với gió,không phải là hạng Phật tử cầu đạo, bèn sai Tăng Ni chuyển lời trách bà vãi già,truyền bảo nàng Thị Bích quay về nhà đi lấy chồng, lập sinh nghiệp, đợi khi về già thì sẽ lại cho đến học đạo.
Thị Bích thấy Sư nghiêm túc,khó chuyển lay, bèn nói với Tăng Ni rằng mình vốn con nhà quan,cha thu thuế đem về kinh nộp bị mất trộm hết cả tiền, đương lo phải tội nàng phải đi khuyến giáo lấy tiền cứu cha.Nay xin vâng lời ra về,nhưng mong được giúp đỡ.Tăng Ni thưa với Huyền Quang.Sư bèn cho nàng một dật vàng để góp vào số tiền mà nàng cần có để giúp cha đền vào công quỹ.Và Thị Bích được vàng,bái biệt để về.
Về đến kinh, vào gặp vua, quỳ tâu rằng:
-Thiếp vâng ý chỉ của Bệ hạ đi thử Quốc sư Huyền Quang. Đến chùa Vân Yên, ở nhờ một bà vãi già, tự xưng là con gái nhà dân, xin được học đạo tôn sư.Bà vãi già sai thiếp dâng nước chè lên cho Sư. Được hơn một tháng,Sư không hề nhìn, liếc,hỏi han gì cả.Một hôm vào buổi tranh tối, tranh sáng,Sư lên tụng kinh, đến canh ba,Sư và Tăng Ni ai nấy về phòng mình để ngủ.Thiếp bèn đến cạnh phòng của Quốc sư để nghe xem động tĩnh, thì thấy Quốc sư ngâm bài lệ rằng:
“Vằng vặc giăng mai ánh nước,
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh.
Người hòa tươi tốt, cảnh hòa lạ,
Mâu Thích Ca nào thửa hữu tình”.
Ngâm đi, ngâm lại mãi.Thiếp bèn vào tăng phòng, từ biệt Sư để về nhà thăm cha mẹ, hẹn sang năm sẽ quay lại học đạo.Sư bèn giữ lại ngủ một đêm,rồi cho thiếp một dật vàng.
Nhà vua nghe lời tâu thì bực bội, không vui mà nói rằng:
-Việc này nếu quả có thực thì đó là vì ta giăng mắc lưới vây ở cửa tổ chim mà bắt chim vậy.Nếu việc không có thực thì Quốc sư khó tránh khỏi phải chịu đựng mối ngờ đối với người sửa dép vườn dưa vậy.
Bèn mở hội Vô Già ở phía tây kinh thành, cho mời Sư đến,giao cho giữ ngôi mật án pháp trong lễ hội ấy.Cà-sa,y bát,pháp khí, tất cả đều đem ra dùng; đồi mồi, vàng bạc, châu báu la liệt đem ra trang hoàng.Sư thấy vua mời, bèn về kinh thành yết kiến.Hôm sau, sáng sớm, Sư đến đàn làm lễ.Bốn đàn lễ đều căng lụa quyến vàng,tạp vật thuộc các loại, đèn hương của sáu lễ cúng đều bày biện đầy đủ cả.Sư đã biết bữa trước bị nhà vua sai cung nữ đến thử mình,ngẩng mặt lên trời than thở, lên đàn ba lần, đứng trống trải giữa đàn,vọng bái hiền thánh mười phương, tay trái cầm bình ngọc trắng, tay phải cầm cành liễu xanh, miệng thầm niệm chú,rưới nước phép từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, khắp đàn làm lễ.Bỗng thấy một đám mây đen từ phương tốn hiện lên,bụi cát bay che mù mịt cả bầu trời, chỉ một lát lại tan hết.Tất cả các tạp vật trên đàn làm lễ đều bay đi mất sạch,chỉ đèn hương của sáu phép cúng là còn lại mà thôi.Các đạo tràng và tất cả mọi người xem hội đều kinh sợ, thất sắc.Vua thấy phép của Quốc sư thông cảm đến cả trời và đất,bèn rời chiếu lễ, đến lạy tạ lỗi trước Quốc sư.Vua giáng Thị Bích làm phu quét rửa chùa Cảnh Linh ở trong cung.Từ đó càng thêm tôn kính nhà sư, gọi là Tự Pháp,nghĩa là người nối dõi Phật Pháp”.
(Văn học VN-Đinh Gia Khánh chủ biên-NXB.GDXH-2001)
Khảo dị 3:
Sau đây là thêm một số truyền thuyết về Tổ Huyền Quang.
A.Câu chuyện nàng Điểm Bích với Sư Huyền Quang chỉ là dã sử lưu truyền…
Theo chuyện kể của Đỗ Đình Thọ thì đây là: “Nghi án văn chương về một thiên tình sử”.
Về sự thật của mối tình ấy, không ai kết luận được.Có điều lạ là có người đời vẫn không quên nàng.Nhà thơ Phạm Đình Hổ kể rằng:Vào thời Cảnh Hưng (1970), mộ nàng Điểm Bích ở làng Hoạch Trạch (huyện Cẩm Bình),khi đào lên thấy áo quan vẫn còn sơn son y nguyên.Mở ra xem, trong quan đầy nước trong veo,hương thơm ngát mũi, liền đậy lại.Nên có nhiều nhà thơ ca ngợi nàng…Trong đó có bài của Nhữ Công Chân:
Tăng hương tiêu phòng,khoa yểu điệu
Khước lai sơn tự,bạn không thiền.
Nghĩa là:
Phòng khuê thuở trước từng khoe đẹp
Chùa núi sau này, tựa cảnh không…
Về sau Binh bộ Thượng thư Ninh Tốn khi qua Yên Tử đã để lại vần thơ viếng nàng, đầy lòng thương cảm…
Bích nương từ buổi biệt sơn môn,
Muôn thuở còn ghi, nỗi tủi hờn.
Muốn mượn xạ lan,xông cửa Phật.
Đâu ngờ cây đá,khóa thiền quan.
Giai nhân không sức, gây nền Pháp,
Nước tịnh hiềm chi, giả sắc oan
Du khách bồi hồi, tìm dấu cũ
Giã từ chẳng giữ, chút hương tàn…
Vậy còn mối tình của nàng với Huyền Quang với chủ mưu là tìm cách tỏ tình với Huyền Quang,nhưng luôn bị Huyền Quang lảng tránh.
Một hôm thấy Điểm Bích đang trầm tư ngồi thêu bên cửa sổ, Huyền Quang tức cảnh sinh tình làm bài thơ:
Giai nhân tức sự,
Nhị bát giai nhân, thích tú trì
Tử Kinh hoa hạ, chuyển hoàng ly
Khả liên vô hạn, thương xuân ý
Tân tại đình châm,bất ngữ thi.
Dịch thơ:
Mười sáu giai nhân, bỗng ngập ngừng
Đôi oanh thỏ thẻ, gốc hồng nhung,
Chạnh niềm tâm sự, thương xuân quá…
Mũi chỉ đường kim, khoảng khắc dừng…
Đọc thơ của Huyền Quang, Điểm Bích sung sướng thấy ông là vị sư có tâm hồn phóng khoáng, nhập thế, yêu đời thương người…nên nàng lại tìm cách tỏ tình, nhưng Huyền Quang vẫn cứ im lặng.Nàng bực mình làm một bài thơ tỏ vẻ khiêu khích…(đã dẫn ở trên).
Xem thơ Điểm Bích, Huyền Quang gật gù tỏ ý khen…Điểm Bích lại tiếp tục tỏ tình, để tỏ tài chinh phục.Nhưng rồi Huyền Quang vẫn cứ mô Phật, lặng im.Tức quá, nàng bèn nghĩ kế đánh lừa (như truyện đã nêu).
Như vậy thực hư thế nào…chỉ có Huyền Quang và Điểm Bích mới biết.
Theo xu hướng bảo vệ danh dự cho Đệ tam Tổ Trúc Lâm, nhân dân thời đó đã đặt ca dao để minh oan cho Ngài:
Dù cho tát cạn Bình Than,
Cũng không rửa được nỗi oan cho thầy.
B.Sự tích về Huyền Quang
Cũng tại nơi đây, năm Quý Sửu (1313),khi ông Trụ trì tại chùa Vân Yên, đã để lại một sự tích.
Một hôm,vua Anh Tông bảo quần thần và Tăng nhân rằng: “ Người ta sinh ra ở đời ăn của ngon, yêu sắc đẹp, người nào cũng có lòng dục.Chúng ta vì dốc lòng học đạo, mà phải ức chế, nhưng cũng chỉ được một phần mà thôi.Nay xét Lão tăng Huyền Quang, theo lẽ sắc sắc, không không, yên lặng như nước không sóng, trong sáng như gương không bụi, như thế là sự ức chế được lòng dục, hay không có lòng dục?”Học sĩ Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đỉnh Chi tâu: “Hoạ hổ họa bì,nan họa cốt.Tri nhân tri diện,bất tri tâm (Nghĩa là:vẽ hổ, vẽ da,khó vẽ được xương.Biết người ,biết mặt, không biết được lòng dạ thế nào.)Hãy cho thử xem,thì mới biết hay dở.”Vua nghe theo.
Bấy giờ trong triều có một cung nữ đang tuổi thanh xuân, tài sắc hơn người.Quê nàng ở huyện Đường An,mẹ nàng góa chồng từ khi còn trẻ.Bà đến chùa Quỳnh Lâm lễ Phật, đêm ngủ lại chốn Thiền môn, có người đàn ông không quen biết, đến gian díu.Sau đấy bà có thai, sinh con gái,dân gian gọi là em bé Quỳnh Lâm.Em lớn lên, ngày càng xinh đẹp, thông minh và ham học.Chín tuổi được tuyển làm cung nữ, vua khen là nữ thần đồng, đặc biệt có tài thơ Nôm.Người đó là Điểm Bích.Vua chọn Điểm Bích là người kiểm nhiệm sự chân tu của Huyền Quang.Trước lúc nàng ra đi, Vua dặn: “Phải lấy được thỏi vàng của Huyền Quang, nếu Lão tăng còn tình dục”.
Từ kinh thành Thăng Long, Điểm Bích ra đi cùng một tiểu tỳ.Trèo đèo,suối mấy lần,nàng đến được chùa Vân Yên,xin ở nhờ một vãi già,lấy cớ xuất gia học đạo.Ngày ngày nàng mang nước đến chỗ Huyền Quang.Hy vọng với sắc đẹp rực rỡ,dáng điệu uyển chuyển của nàng sẽ làm thức dậy cuộc sống trần tục của Lão tăng.Qua nhiều lần tiếp xúc,Huyền Quang như không để ý đến người con gái xinh đẹp, dịu dàng, nhưng ông cũng hiểu nội tâm nàng.Ông khuyên Điểm Bích hãy trở về, khi nào cao tuổi mới tu được.Con người thông minh như Điểm Bích không cam chịu thất bại.nàng bèn nghĩ ra một kế.
Một hôm,nàng tự xưng là con quan Tri huyện Cẩm Hóa,cha nàng mang mười lăm cân vàng đi nộp công khố, không may bị kẻ gian lấy cắp,may nhờ người thân giúp đỡ đã gần đủ.Nay muốn nhờ Lão sư phát tâm làm phúc cho chút đỉnh, để nàng trọn đạo với cha,nếu không cha nàng sẽ mang tội.Huyền Quang nghĩ rất thương tình,bèn nói với các Tăng Ni: “ Ta nhân vì người này, để mang quảng đức hiếu sinh của Hoàng đế và làm một lương đồ cứu khổ cho dân chúng”.Một tiểu Tăng nói: “Pháp luật là công cộng của thiên hạ.Kẻ có của không biết giữ cẩn thận, theo pháp luật mà trị là điều lệ công.Nay ta đem vàng công đức để lấy ơn riêng, vậy có nên chăng?”.Lão tăng thấy nói thế cho là phải,song vẫn lấy một nén vàng của riêng mình cho Thị Bích.
Lấy được vàng, Điểm Bích trở về kinh đô,dựng lên một chuyện hoàn toàn khácsự thật.Nàng tâu vua: “ Một hôm sư lên chùa tụng kinh, đến trống canh ba, sư cùng các Tăng Ni về phòng ngủ.Thần thiếp đến bên cạnh phòng của sư xem sư làm gì.Thấy sư ngâm một bài kệ rằng:
Vằng vặc trăng soi đáy nước,
Hiu hiu gió trúc ngâm sênh,
Người hòa tươi tốt cảnh hòa lạ,
Mâu Thích Ca nào, thử hữu tình…
Sư ngâm nga mấy lần, thần thiếp thấy sư còn thức, vào phòng xin phép sư về thăm cha mẹ, sang năm lại đến học đạo.Sư giữ thần thiếp lại một đêm, và chomột nén vàng”.
Nghe xong,Vua uất ức nói: “ Nếu việc ấy có thật, thì ta đã đạt được mưu kế là giăng lưới bắt chim.Nếu việc ấy không có, thì Lão tăng cũng không tránh khỏi bị nghi ngờ qua ruộng dưa mà sửa giày”.
Thấy Vua nói thế, Thị Bích chột dạ! Nhất là sau đó ít lâu, sự việc nàng tâu trình lộ ra.Thị cảm thấy trong cung mọi người muốn xa lánh Thị…Thực ra người khen nàng cũng có,là có tài đánh gục được Lão tăng về tình đời…nhưng người chê và nghi ngờ việc làm của Thị thì nhiều…khiến nàng rất ân hận,và tâm trạng bất an, chưa biết giải thoát bằng cách nào…
Cũng thời điểm đó,Vua sai mở hội Vô Già ở phía tây kinh thành, mời Huyền Quang về làm án pháp.
Sư về đến Thăng Long, thấy sự thể, biết mình đã bị lừa…Sư ngửa mặt lên trời than vãn, lạy ba lần, cúi xuống đất, lạy ba lần, rồi lên lễ đàn, đứng vọng bái mười phương.Vua thấy hình pháp của Sư còn “thông thấu lòng người, cùng trời đất”…
Bỗng phía cuối đàn, nơi cung tần chầu lễ, có tiếng khóc nấc lên…Vua cho quan Thái Giám tới hỏi nguyên do…Sau đó Vua được biết: đó là tiếng khóc hối hận của Thị Bích, sự việc của Lão tăng không phải như vậy, nay Thị Bích xin tự thú về sự việc tâu trình sai sự thật của mình…chỉ xin vua tha tội chết.
Vua liền lên đàn xin lỗi Sư và ra lệnh giáng Thị Bích làm người quét chùa Cảnh Linh trong nội điện…
Sau vụ giải oan ở Thăng Long, Huyền quang trở lại vùng Đông Bắc tiếp tục tu hành,viết sách và giảng đạo.
Kể rừ sau khi Pháp Loa tịch diệt, sự nghiệp Thiền phái Trúc Lâm do Huyền Quang chủ trì và trở thành vị Tổ thứ ba của Thiền phái này.
Để ghi nhớ công ơn, đời sau đã đúc tượng Trúc Lâm Tam Tổ ngự trên tòa sen:
Pho ngự ở giữa, đức vua ta,
Bên trái là tượng ngài Pháp Loa
Huyền Quang tay phải, Đệ tam Tổ,
Tấm lòng nhân ái, tỏa bao la…
Sau đó Huyền Quang về tu ở chùa Thanh Mai (huyện Chí Linh) sáu năm,rồi về chùa Côn Sơn, lập đài Cửu Phẩm Liên Hoa,biên tập nhiều kinh sách truyền lại cho đời sau.
Ngày 20 tháng giêng năm Giáp Tuất (1334) Lão tăng viên tịch tại Côn Sơn, hưởng thọ 81 tuổi.Vua Trần Minh Tông cho mười lạng vàng xây tháp cho Lão sư ở phía tả (sau chùa Côn Sơn) đặc phong tự pháp Huyền Quang Tôn giả.
C.Ba huyền thoại về Tam Tổ Huyền Quang
Thứ nhất:Thân phụ Ngài là Huệ Tổ, dòng dõi nhà quan, nhưng đến đời ông thì không thích công danh, chỉ thích ngao du sơn thủy, tuy có công dẹp giặc Chiêm Thành, nhưng không nhận làm quan.Thân mẫu Ngài họ Lê là người hiền đức.
Năm Ngài sinh, ở phía Bắc gần nhà, có chùa Ngọc Hoàng, một hôm thầy Trụ trì ở đó là Thiền sư Huệ Nghĩa, tối tụng kinh trên chùa xong, về tại phòng ngồi nghỉ, chợt ngủ thiếp đi, mộng thấy, trên chùa đèn nến sáng trưng, Chư Phật hội tụ rất đông…thấy Phật chỉ Tôn giả A Nan bảo: “ Người thách sinh làm pháp khí cõi Đông”.Chợt có người gõ cửa, Thiền sư chợt tỉnh giấc, liền làm bài kệ viết lên vách chùa: (Bản dịch)
Người mà vì đạo, chớ tìm đâu,
Phật vốn tâm mình, tâm Phật sâu
Mộng thấy điềm lành, là ảnh hưởng
Đời này ắt gặp bạn tâm đầu…
Có sách nói “Thuở nhỏ Ngài dung nhan kỳ lạ, ý chí xa vời”nhưng có điều nói rằng kỳ lạ thì hoặc là đẹp hay là không có sắc diện như người bình thường.
Nên đến năm Ngài hai mươi mốt tuổi, thi đỗ Trạng nguyên.Cha mẹ có dạm hỏi vợ cho Ngài, nhưng chưa cưới…sau khi thi đỗ, nhà Vua định gả Công chúa cho,Ngài từ chối, nên có chỗ nói rằng:tuy có dạm hỏi, nhưng không được người ta ưng thuận, nên Ngài hơi buồn.Vì thế khi thi đỗ,Vua định gả Công chúa cho, Ngài từ chối và than:
Khó khăn thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ Trạng, tám nghìn nhân duyên
Thứ hai:Khi bị nạn Cung phi Điểm Bích ( như truyện kể phần trên)có sự thần bí trong cầu cúng…
Chuyện rằng:Sư thấy sứ thỉnh,liền về triều yết kiến.Sơm hôm sau,sư vào đàn tràng thấy bốn bên bọc lụa vàng, trên bàn bày các tạp vật cùng hương đăng hoa quả.Sư biết là do cung nữ thử mình ngày trước,liền ngửa mặt lên trời than thầm, lên xuống đàn ba lần ,rồi đứng giữa đàn vọng bái thánh hiền mười phương.Tay trái cầm bình bạch ngọc, tay phải cầm nhánh dương xanh mật niệm và tẩy tịnh trong và ngoài đàn tràng.Bỗng một đám mây đen từ phía Đông Nam ùn ùn kéo tới, bụi bay mù mịt ngất trời, một lát thì dứt.Lạ thay!Các thứ tạp vật bị gió cuốn đi hết, chỉ còn lại hương đăng lục cúng.Các đạo tràng và những người xem hội, ai nấy thất sắc kinh hoàng.
Vua thấy hạnh pháp của Sư thấu đến trời đất, liền rời chỗ ngồi lạy xuống để tạ lỗi Sư,rồi phạt Điểm Bích.
Từ đó vua càng tôn kính và gọi sư là Tự Pháp.
Thứ ba: Sự kỳ lạ của quyển Tổ Gia Thực Lục (là quyển sách trong gia tộc viết về Ngài).
Khi quân nhà Minh sang xâm chiếm nước ta, gom hết sách đưa về nước ( trong đó có quyển Tổ Gia Thực Lục).Viên quan đó để trong nhà, một hôm thấy Ngài Huyền Quang hiện lên, bảo đem trả quyển sách đó cho Việt Nam, nhưng rồi ông chết.
Sau này có một vị quan Việt Nam sang sứ Trung Hoa thì người cháu bốn đời viên quan kia trả lại quyển sách và kể lại chuyện trên…
(Sự tích Tam Tổ Trúc Lâm của Nguyễn Thi-Hội Văn nghệ Uông Bí tái bản lần thứ 7).

Xem tiếp...
 
Mấy sư ngoài Bắc từ thời 45 là thấy tuyệt tích rồi, mấy cái sự tích này kể lại gọi là cho có thôi.
 
Chùa thờ ông này ở ngoài bãi bồi. Xưa chưa xây thuỷ điện hoà bình thì năm nào cũng ngập.
 

Chủ đề tương tự

Back
Top Bottom