- Bài viết
- 1,080
- Xu
- 33,818
Trong Thánh Kinh Tân Ước, theo Sách Luke 24: 37–39, sau khi phục sinh, Chúa Jesus buộc phải thuyết phục các Tông đồ rằng ngài không phải là hồn ma (một số phiên bản của Thánh Kinh như KJV và NKJV sử dụng thuật ngữ là “linh thần” – spirit). Tương tự như vậy, những môn đồ của Chúa Jesus lúc đầu tin rằng ngài là linh hồn khi họ nhìn thấy ngài trổ thần thông đi trên mặt nước.
Một trong những người đầu tiên tỏ ra hoài nghi không tin có ma là Lucian xứ Samosata sống ở thế kỷ 2 CN. Trong bộ truyện trào phúng Người tình của Lừa dối (The Lover of Lies, khoảng năm 150), ông kể về cách Democritus “người đàn ông đã học từ vùng Abdera tại Thrace” cư ngụ ở mồ mả bên ngoài cổng thành để chứng minh rằng nghĩa địa không có hồn ma người chết ám ảnh gì cả. Lucian vẫn kiên quyết với lập trường không tin của mình cho dù ông có bị “một số thanh niên của Abdera” mặc áo choàng đen đội mặt nạ đầu lâu hù dọa để trêu ngươi làm ông ta sợ hãi. Theo Lucian thì ông cũng có kỳ vọng theo kiểu cổ điển phổ biến là nếu có ma, ông cũng muốn xem thử nó hiện hình trông ra sao.
Đến thế kỷ thứ 5 CN, linh mục Ki-tô giáo Constantius xứ Lyon đã ghi lại một ví dụ về chuyện tái diễn của người chết chôn cất không đúng cách hiện hồn về ám ảnh người sống và chỉ có thể ngừng ám ảnh khi xương của họ được phát hiện và cải táng đúng cách.
Một số giáo phái thuộc Ki-tô giáo xem hồn ma như là những sinh thể bị ràng buộc với trần thế, trên bình diện vật lý thì không còn sống nữa và nán lại ở trạng thái trung gian trước khi tiếp tục hành trình lên thiên đường. Mục sư Anh giáo người phát khởi Phong trào Giám lý là John Wesley (1703–1791) cũng tin rằng thiên đường và địa ngục là hai thái cực độc quyền dành cho kẻ ác người thiện, tuy nhiên phải có trạng thái trung gian cho những loại người còn lại, những linh hồn đó sẽ được chờ đợi cho đến ngày Phán xét cuối cùng “nơi các tín hữu chia sẻ ‘tấm lòng của Tổ phụ Abraham’ hay chính là ‘thiên quốc,’ rồi thậm chí tiếp tục phát triển sự thánh thiện ở đó.” Trạng thái trung gian này được Thần học Công giáo phát triển thành khái niệm Luyện ngục (Purgatory), tức là nơi các linh hồn sẽ đến trú ngụ để phản tỉnh và tịnh hóa chính mình trước khi được cho phép lên thiên đường. Thỉnh thoảng, Thiên Chúa sẽ cho phép các linh hồn trong trạng thái này trở về trần gian để cảnh báo người sống phải thức tỉnh ăn năn, và chủ yếu là họ xin người sống năng cầu nguyện, bố thí, ăn chay, hành hương, và làm các thiện sự. Các Ki-tô hữu được dạy rằng họ sẽ phạm tội lỗi nếu cố gắng triệu cầu hoặc điều khiển các linh hồn, điều này được quy định theo Sách Phục truyền Luật lệ chương 18: 9–12. Theo nghĩa này, đôi khi hồn ma có thể liên lạc với con người nếu được Thiên Chúa cho phép, nhưng con người tuyệt đối không được chủ động liên lạc và khống chế các hồn ma, vì điều đó là phạm luật Chúa.
Một số hồn ma thực sự bị cho là do quỷ dữ ngụy trang, theo Giáo hội Công giáo dạy dẫn theo Sách Timothy I chương 4: 1–2 rằng “Vả, Ðức Thánh Linh phán tỏ tường rằng, trong đời sau rốt, có mấy kẻ sẽ bội đạo mà theo các thần lừa dối, và đạo lý của quỷ dữ, bị lầm lạc bởi sự giả hình của giáo sư dối, là kẻ có lương tâm đã lì,” quỷ dữ đến để lôi kéo con người ra khỏi Thiên Chúa và biến họ thành nô lệ cho chúng. Vậy kết quả của việc con người cố gắng liên lạc với hồn ma có thể dẫn đến cuộc tiếp xúc không mong muốn với một con ác quỷ hoặc một linh hồn ô uế như đã xảy ra trong vụ án của Robbie Mannheim, một thanh niên mười bốn tuổi sống ở Maryland. Cậu này đã chơi bảng cầu cơ Ouija và triệu lên những con quỷ ghê rợn điều khiển và hành hạ thể xác cậu bé cho đến khi chúng bị thầy trừ tà ra lệnh trục xuất về địa ngục.
Các tín đồ Tin Lành của Giáo hội Cơ-đốc Phục lâm (Seventh-day Adventist Church) thì lại có quan điểm rằng “tinh thần” (soul) không tương đương với “linh hồn” (spirit) hay “hồn ma” (ghost), vì “linh hồn” là từ ngữ duy nhất chỉ dành cho Chúa Thánh Linh (Ngôi Ba, tùy phiên bản Kinh Thánh), còn tất cả những linh hồn nào khác đều là do quỷ dữ ngụy trang. Ngoài ra, họ căn cứ theo Sách Sáng Thế Ký (Genesis) chương 2: 7 dạy rằng “Jehovah Ðức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sinh linh,” và Sách Truyền đạo (Ecclesiastes) chương 12: 7 dạy “và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Ðức Chúa Trời, là Ðấng đã ban nó,” dẫn chứng những kinh văn này để lập luận rằng con người được cấu tạo từ hai thành phần là bụi đất làm nên nhục thể và sinh khí của Chúa làm nên tinh thần, sau khi chết xác người trở về với cát bụi và sinh khí trở về với Thiên Chúa, cho nên không hề có chuyện còn linh hồn sau cái chết. Các giáo phái Tin Lành khác như Hội Anh em Chúa Ki-tô (Christadelphians) và Hội Chứng nhân Jehovah (Jehovah's Witnesses) cũng phủ nhận có sự tồn tại của linh hồn người chết còn ý thức.
Một trong những người đầu tiên tỏ ra hoài nghi không tin có ma là Lucian xứ Samosata sống ở thế kỷ 2 CN. Trong bộ truyện trào phúng Người tình của Lừa dối (The Lover of Lies, khoảng năm 150), ông kể về cách Democritus “người đàn ông đã học từ vùng Abdera tại Thrace” cư ngụ ở mồ mả bên ngoài cổng thành để chứng minh rằng nghĩa địa không có hồn ma người chết ám ảnh gì cả. Lucian vẫn kiên quyết với lập trường không tin của mình cho dù ông có bị “một số thanh niên của Abdera” mặc áo choàng đen đội mặt nạ đầu lâu hù dọa để trêu ngươi làm ông ta sợ hãi. Theo Lucian thì ông cũng có kỳ vọng theo kiểu cổ điển phổ biến là nếu có ma, ông cũng muốn xem thử nó hiện hình trông ra sao.
Đến thế kỷ thứ 5 CN, linh mục Ki-tô giáo Constantius xứ Lyon đã ghi lại một ví dụ về chuyện tái diễn của người chết chôn cất không đúng cách hiện hồn về ám ảnh người sống và chỉ có thể ngừng ám ảnh khi xương của họ được phát hiện và cải táng đúng cách.
Một số giáo phái thuộc Ki-tô giáo xem hồn ma như là những sinh thể bị ràng buộc với trần thế, trên bình diện vật lý thì không còn sống nữa và nán lại ở trạng thái trung gian trước khi tiếp tục hành trình lên thiên đường. Mục sư Anh giáo người phát khởi Phong trào Giám lý là John Wesley (1703–1791) cũng tin rằng thiên đường và địa ngục là hai thái cực độc quyền dành cho kẻ ác người thiện, tuy nhiên phải có trạng thái trung gian cho những loại người còn lại, những linh hồn đó sẽ được chờ đợi cho đến ngày Phán xét cuối cùng “nơi các tín hữu chia sẻ ‘tấm lòng của Tổ phụ Abraham’ hay chính là ‘thiên quốc,’ rồi thậm chí tiếp tục phát triển sự thánh thiện ở đó.” Trạng thái trung gian này được Thần học Công giáo phát triển thành khái niệm Luyện ngục (Purgatory), tức là nơi các linh hồn sẽ đến trú ngụ để phản tỉnh và tịnh hóa chính mình trước khi được cho phép lên thiên đường. Thỉnh thoảng, Thiên Chúa sẽ cho phép các linh hồn trong trạng thái này trở về trần gian để cảnh báo người sống phải thức tỉnh ăn năn, và chủ yếu là họ xin người sống năng cầu nguyện, bố thí, ăn chay, hành hương, và làm các thiện sự. Các Ki-tô hữu được dạy rằng họ sẽ phạm tội lỗi nếu cố gắng triệu cầu hoặc điều khiển các linh hồn, điều này được quy định theo Sách Phục truyền Luật lệ chương 18: 9–12. Theo nghĩa này, đôi khi hồn ma có thể liên lạc với con người nếu được Thiên Chúa cho phép, nhưng con người tuyệt đối không được chủ động liên lạc và khống chế các hồn ma, vì điều đó là phạm luật Chúa.
Một số hồn ma thực sự bị cho là do quỷ dữ ngụy trang, theo Giáo hội Công giáo dạy dẫn theo Sách Timothy I chương 4: 1–2 rằng “Vả, Ðức Thánh Linh phán tỏ tường rằng, trong đời sau rốt, có mấy kẻ sẽ bội đạo mà theo các thần lừa dối, và đạo lý của quỷ dữ, bị lầm lạc bởi sự giả hình của giáo sư dối, là kẻ có lương tâm đã lì,” quỷ dữ đến để lôi kéo con người ra khỏi Thiên Chúa và biến họ thành nô lệ cho chúng. Vậy kết quả của việc con người cố gắng liên lạc với hồn ma có thể dẫn đến cuộc tiếp xúc không mong muốn với một con ác quỷ hoặc một linh hồn ô uế như đã xảy ra trong vụ án của Robbie Mannheim, một thanh niên mười bốn tuổi sống ở Maryland. Cậu này đã chơi bảng cầu cơ Ouija và triệu lên những con quỷ ghê rợn điều khiển và hành hạ thể xác cậu bé cho đến khi chúng bị thầy trừ tà ra lệnh trục xuất về địa ngục.
Các tín đồ Tin Lành của Giáo hội Cơ-đốc Phục lâm (Seventh-day Adventist Church) thì lại có quan điểm rằng “tinh thần” (soul) không tương đương với “linh hồn” (spirit) hay “hồn ma” (ghost), vì “linh hồn” là từ ngữ duy nhất chỉ dành cho Chúa Thánh Linh (Ngôi Ba, tùy phiên bản Kinh Thánh), còn tất cả những linh hồn nào khác đều là do quỷ dữ ngụy trang. Ngoài ra, họ căn cứ theo Sách Sáng Thế Ký (Genesis) chương 2: 7 dạy rằng “Jehovah Ðức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một loài sinh linh,” và Sách Truyền đạo (Ecclesiastes) chương 12: 7 dạy “và bụi tro trở vào đất y như nguyên cũ, và thần linh trở về nơi Ðức Chúa Trời, là Ðấng đã ban nó,” dẫn chứng những kinh văn này để lập luận rằng con người được cấu tạo từ hai thành phần là bụi đất làm nên nhục thể và sinh khí của Chúa làm nên tinh thần, sau khi chết xác người trở về với cát bụi và sinh khí trở về với Thiên Chúa, cho nên không hề có chuyện còn linh hồn sau cái chết. Các giáo phái Tin Lành khác như Hội Anh em Chúa Ki-tô (Christadelphians) và Hội Chứng nhân Jehovah (Jehovah's Witnesses) cũng phủ nhận có sự tồn tại của linh hồn người chết còn ý thức.