Lời thề bên dòng Bến Hải và những đứa trẻ của lũy thép trên đất Tân Kỳ

PV Xamer

Big Daddy
⚔VIP⚔
Bài viết
122,685
Xu
326
Sớm cuối năm 1968, bà Kính nén nước mắt, liêu xiêu cùng đoàn người hướng ra miền bắc. Con gái bà, chị Đinh Thị Thu khi ấy mới tròn 2 tháng tuổi, được mệ đặt vào thúng để gánh đi. Tiếng khóc oe oe thi thoảng lại ngằn ngặt vang lên dọc đường trường chinh vạn dặm…

Tới Nghệ An, mỗi gia đình được phát 12 món hàng, bao gồm các vật dụng sinh hoạt, nhu yếu phẩm cơ bản như áo quần, gạo, dao, kim chỉ. Hằng tháng, người lớn được thêm 12kg gạo trộn cùng khoai, sắn; nước mắm, nước tương. Trẻ em thì nhận 4-7kg tùy theo độ tuổi. Gửi con ở trường mẫu giáo gần điểm tạm cư, bà Kính nhận nhiệm vụ mới là Kế toán trưởng Hợp tác xã Nam Hồ.

Gần một năm sau, từ Tự Lực (Quảng Bình), bà Võ Thị Liêu cũng gánh hai con về Tân Kỳ, ở chung với bà Kính. Trong khoảng thời gian ngắn, hai gia đình “vỡ đôi” chập lại thành một, cùng nhau cố gắng nuôi dạy lũ trẻ Vĩnh Linh nên người.

Vài năm tiếp theo, thế hệ thứ hai của “lũy thép” cứ dần lớn lên trên đất mới Tân Kỳ. Tuổi thơ của họ là những ngày “đi lượm hạt lim đen nhánh về làm đồ chơi, rủ nhau ngụp lặn ở khe Su chảy từ nguồn Đá Ông-Đá Bà, mùa hè mát lịm và trong vắt. Lớn thêm một chút thì kéo nhau vào rừng hái măng, hái nấm, rồi xuống suối bắt cua, xúc cá, đặt ống trúm bẫy lươn.” (Trích bài viết Trở lại Tân Kỳ, nhà báo Đinh Như Hoan).


Tuổi thơ của họ là những ngày “đi lượm hạt lim đen nhánh về làm đồ chơi, rủ nhau ngụp lặn ở khe Su chảy từ nguồn Đá Ông-Đá Bà, mùa hè mát lịm và trong vắt. Lớn thêm một chút thì kéo nhau vào rừng hái măng, hái nấm, rồi xuống suối bắt cua, xúc cá, đặt ống trúm bẫy lươn.”(Trích bài viết Trở lại Tân Kỳ, nhà báo Đinh Như Hoan)


Tuổi thơ của họ còn là những ngày “trốn chạy” bom đạn của quân thù. Đó là vào khoảng những năm 1971-1972, Mỹ tăng cường ném bom miền bắc, trong đó có tọa độ Tân Kỳ-đường 15A, nơi có hàng vạn chuyến xe chở vũ khí, quân lương tập kết. Mọi sinh hoạt đều phải chuyển sang thời chiến.

Bà Ngô Thị Lộc ở xã Nghĩa Đồng, sinh trước khi đồng bào Vĩnh Linh di tản tới Tân Kỳ đúng 10 năm. Trực tiếp lớn lên, sinh hoạt cùng “thế hệ thứ hai” của lũy thép Quảng Trị, bà vẫn nhớ như in không khí đặc biệt những ngày tháng đỏ lửa hơn 60 năm về trước. Nhà nào cũng tiến hành đào hầm chữ A với những cây gỗ lớn, chắc chắn được kéo về từ rừng. Ngay cả các điểm trường lớp cũng không ngoại lệ.

“Tôi học cấp 1 cùng với các bạn học sinh và thầy cô giáo từ Vĩnh Linh tới. Giai đoạn này, lớp học nào cũng có một đường hào để sơ tán. Mỗi khi nghe tiếng kẻng, chúng tôi lại vội vã chui qua bờ tường chạy ra trú dưới các hầm Triều Tiên được đào sẵn”, bà Lộc kể.

Nhà nào cũng tiến hành đào hầm chữ A với những cây gỗ lớn, chắc chắn được kéo về từ rừng. Ngay cả các điểm trường lớp cũng không ngoại lệ.

Mới 4 tuổi khi “cao điểm” đánh phá Tân Kỳ diễn ra, chị Đinh Thị Thu vẫn nhớ âm thanh ầm ầm của động cơ máy bay B52 xé toạc vùng trời bình yên của ngôi làng chị trú ngụ.

Tiếng rít kéo dài, âm thanh ù ù dội thẳng vào lồng ngực khiến người ta nghẹt thở. “B-52! B-52 đến! Chạy đi”, từ dãy nhà mầm non, có tiếng người hô hoán. Khắp tứ phía, cảnh già, trẻ, gái, trai chạy tán loạn giữa cái nắng đổ lửa. Gần đó, có hai chiếc hang trú ẩn. Một hang có rắn nên ít ai dám vào.

“Lúc ấy, tôi còn quá nhỏ để hiểu cảm giác sợ hãi là gì nên vô tư chạy vào chiếc hang có rắn”, chị Thu hồi tưởng. Từng tốp người kéo nhau chạy vào hang còn lại cách đấy không xa. Tất cả đều nín thở như chờ đợi một kết cục nào đó.

“Đoàng! Đoàng! Đoàng! Ba quả bom liên tiếp thả xuống chỗ hang có nhiều người đang trú ẩn. Trời đất mịt mù. Tôi chao đảo rồi ngã huỵch phía miệng hang. May mắn chạy thoát, nhưng tôi biết, mọi người trong chiếc hang còn lại chết sạch. Không một ai sống sót”, chị Thu thất thần nhớ lại.

Sau này, chị Thu chẳng thể nhớ nổi ai đã đưa mình về nhà. Chỉ biết rằng, càng lớn, những hình ảnh về trận bom hôm ấy càng hiện rõ mồn một trong tâm trí và trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi…


Bất chấp khói lửa, vượt qua cả khó khăn, rất nhiều đứa trẻ Vĩnh Linh tiếp tục cất tiếng khóc chào đời và lớn lên trên quê hương thứ hai xứ Nghệ. Điều đặc biệt, trong số họ, có những người có chung ngày khai sinh là 1/6.

Bà Nguyễn Thị Kính, nguyên Kế toán trưởng Hợp tác xã Nam Hồ lý giải: “Ngày ấy còn quá khổ nên chẳng mấy người nhớ ngày, nhớ tháng. Cứ tới dịp 1/6, chúng tôi lại tổ chức phát bánh kẹo cho các cháu. Chắc đó cũng là lý do không ít gia đình lấy luôn ngày 1/6 là ngày sinh cho con”.

Sinh năm 1970, anh Trần Thanh Dương, hiện là Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thị trấn Hồ Xá (Vĩnh Linh, Quảng Trị) cũng là người được sinh ra trên đất Tân Kỳ. Chia sẻ với chúng tôi qua điện thoại, anh bảo: “Với tôi, Vĩnh Linh là quê hương nhưng Tân Kỳ là nơi chôn nhau cắt rốn. Lạ lắm, tôi chẳng hiểu vì sao cứ mỗi lần về Tân Kỳ là bỗng nhiên cổ họng tôi phát ra tiếng Nghệ đặc sệt. Chắc là vì con người ta sinh ra, uống nước từ miền quê nào thì sẽ mang chất giọng của miền quê ấy”.

Với tôi, Vĩnh Linh là quê hương nhưng Tân Kỳ là nơi chôn nhau cắt rốn. Lạ lắm, tôi chẳng hiểu vì sao cứ mỗi lần về Tân Kỳ là bỗng nhiên cổ họng tôi phát ra tiếng Nghệ đặc sệt.
Anh Trần Thanh Dương

Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn từ 1968-1972, dân số Tân Kỳ chỉ có khoảng gần 30.000 người, sau đó tiếp nhận hơn 20.000 người dân Quảng Trị (đợt đầu), gồm phần lớn dân huyện Vĩnh Linh và một số ít dân 2 huyện Gio Linh, Cam Lộ. Sau đó đồng bào ra thêm và nhiều đồng bào sơ tán theo chiến dịch K8 trước đó và từ Hà Tĩnh cũng đến. Đặc biệt, trong 5 năm, đã có 2.612 cháu bé mới sinh thêm. Họ trở thành những “hạt mầm của hy vọng”, cũng là biểu tượng của sức sống Vĩnh Linh trên quê chung Tân Kỳ…

>> Từ Vĩnh Linh tới Tân Kỳ: Cuộc trường chinh vạn dặm

>> "Vỡ đất, vỡ cát" trên quê hương mới Tân Kỳ

Xem tiếp...
 

Chủ đề tương tự

Back
Top Bottom