Hiệp định Geneva: Dấu mốc lịch sử trong sự nghiệp Cách mạng Việt Nam - Bài 1: Từ Điện Biên Phủ đến Geneva

PV Xamer

Big Daddy
⚔VIP⚔
Bài viết
122,685
Xu
326
Bài 1: Từ Điện Biên Phủ đến Geneva

Cuộc kháng chiến chống Pháp 9 năm với đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ vào ngày 7-5-1954 tạo điều kiện cho các bên tham dự Hội nghị Geneva bàn về vấn đề Đông Dương.



Bước sang năm 1953, tình hình thế giới phát triển ngày càng thuận lợi cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta. Lực lượng của phe hòa bình - dân chủ thế giới ngày càng lớn mạnh. Liên Xô, Trung Quốc liên tiếp thu được nhiều thành tích vĩ đại trong xây dựng và phát triển đất nước. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên khắp thế giới ngày càng phát triển…


 
Song song với chủ trương đẩy mạnh các hoạt động quân sự của cuộc kháng chiến, Đảng và Chính phủ quyết định mở mặt trận đấu tranh ngoại giao với địch. Ngày 26-11-1953, trả lời phỏng vấn của Báo Expressen Thụy Điển về vấn đề chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Nếu thực dân Pháp tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược thì nhân dân Việt Nam quyết tâm tiếp tục cuộc chiến tranh ái quốc đến thắng lợi cuối cùng. Nhưng nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó” (1), “Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam” (2), “…Việc thương lượng đình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Chính phủ Pháp” (3).


Tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Báo Expressen đã gây tiếng vang lớn tại Pháp và trên thế giới. Các đoàn thể nhân dân và nhiều nhà chính trị Pháp đòi Chính phủ Laniel tiến hành đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh. Dưới sức ép của dư luận, ngày 3-12-1953, Chính phủ Pháp phải tuyên bố muốn biết lập trường của Việt Minh bằng con đường chính thức và tỏ ý sẵn sàng xem xét việc lập lại hòa bình, bảo đảm độc lập cho các quốc gia liên kết.


 
Pháp đồng ý triệu tập Hội nghị quốc tế tại Geneva vì lúc đó ta chưa mở màn Chiến dịch Điện Biên Phủ; tướng Navarre còn đang tự hào về tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ và tin tưởng ở viện trợ mà Mỹ đang rót vào Đông Dương để Pháp đi vào đàm phán trên thế mạnh.


Ngày 5-3-1954, Quốc hội Pháp mở phiên họp đặc biệt về vấn đề Đông Dương, thông qua nghị quyết hoan nghênh việc triệu tập Hội nghị quốc tế Geneva, bảo đảm hòa bình và an ninh của các quốc gia liên kết trong khối Liên hiệp Pháp.


Nắm vững diễn biến tình hình thế giới và trong nước, nhận lời mời của Trung Quốc và Liên Xô, Trung ương Đảng và Chính phủ giao nhiệm vụ cho Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng và một số cán bộ chuẩn bị tham dự Hội nghị Geneva. Đây là lần đầu tiên Việt Nam đi dự một hội nghị quốc tế lớn, mà ta thì chưa có kinh nghiệm, tình hình quốc tế cũng chưa nắm vững.


Vì thế, Đoàn nhận chỉ thị của Bác Hồ về nguyên tắc và chủ trương lớn, biện pháp lớn: Giữ vững các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân ta, hòa bình trên ba nước Đông Dương, phối hợp chặt chẽ với các Đoàn Liên Xô và Trung Quốc, tranh thủ dư luận quốc tế và nhân dân Pháp ủng hộ cuộc đấu tranh của Đoàn ta trên bàn đàm phán và đặc biệt là vận dụng thật tốt phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến".


Theo lời kể của Thiếu tướng Phạm Sơn Dương, con trai cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ban đầu Chính phủ định cử đồng chí Hoàng Minh Giám, nhưng sau có ý kiến của Bác Hồ, Bác quyết định cử Phó thủ tướng Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn. Tham gia đoàn có Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ Công Thương Phan Anh, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Trần Công Tường, Cục trưởng Cục Tác chiến Hà Văn Lâu, đồng chí Tạ Kính và nhiều chuyên viên.


“Đây đều là những người biết ngoại ngữ và giỏi tiếng Pháp, có thể nói chuyện trực tiếp không qua phiên dịch”, Thiếu tướng Phạm Sơn Dương nhấn mạnh thêm.


 
Thiếu tướng Tạ Quang Chính, nguyên Cục trưởng Cục Chính trị, Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng, là con trai của nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu, thành viên chính thức của Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham dự Hội nghị Geneva năm 1954.


Thiếu tướng Tạ Quang Chính thuật lại câu chuyện mà cha mình thường kể khi còn sống: “Cuối tháng 3, phái đoàn ngoại giao của ta bắt đầu sang Trung Quốc để chuẩn bị. Đến ngày 17-4-1954, phái đoàn ta từ Trung Quốc đã tới Moscow (Liên Xô). Ngày 1-5, phái đoàn Chính phủ ta tham dự lễ Quốc tế Lao động ở Moscow, nhưng vẫn phải bí mật vì vẫn chưa nhận được lời mời chính thức dự Hội nghị Geneva. Ngày 4-5, tuy vẫn chưa được mời nhưng phái đoàn ta vẫn được Liên Xô bố trí sang Berlin bằng máy bay của Liên Xô do phi công Liên Xô lái.


Vẫn chưa có lời mời, vậy mà khi đến Geneva thì điều đặc biệt là phái đoàn ta lại được Chính phủ Thụy Sĩ tiếp đón theo nghi lễ đầy đủ đối với một đoàn chính thức, trong khi các phái đoàn bù nhìn không được tiếp đón như vậy. Cả các đại biểu Liên Xô và Trung Quốc cũng ra tận sân bay đón phái đoàn ta. Trong phái đoàn ta còn có thêm cả một đại biểu của Cao Miên (Campuchia) và một đại biểu Pathet Lào…”.


Trước khi Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến Thụy Sĩ, Hội nghị Geneva đã khai mạc ngày 26-4-1954 tại Palais des Nations, trụ sở của Liên hợp quốc tại châu Âu để bàn về một giải pháp chính trị ở Triều Tiên. Cùng thời điểm này, ở lòng chảo Điện Biên Phủ, quân viễn chinh Pháp đang ở tình thế khốn đốn trước sức tiến công mạnh mẽ của các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam. Sau khi các cứ điểm Him Lam, Độc Lập bị tiêu diệt, quân viễn chinh Pháp ở Bản Kéo buộc phải đầu hàng, đồng thời hàng loạt cứ điểm ở khu phía Đông Mường Thanh bị tiêu diệt. Quân viễn chinh Pháp lâm vào thế bị động, lúng túng. Tuy nhiên, do chiến sự ở Điện Biên Phủ chưa ngã ngũ nên Pháp vẫn nuôi hy vọng giành được một thắng lợi về mặt quân sự, tạo ưu thế trên bàn đàm phán để kết thúc chiến tranh tại Việt Nam trong danh dự.


Trong Nhật ký của mình, Bộ trưởng Bộ Công Thương Phan Anh, thành viên đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham dự Hội nghị Geneva, kể rằng: “Qua ngày đầu, các Ngoại trưởng đã bàn đến sự triệu tập Hội nghị bàn về vấn đề Đông Dương. Ai cũng mong đợi hội nghị này, các báo đều đồng thanh về điểm đó. Vấn đề thành phần: Mỹ, Pháp “làm bộ” về vấn đề mời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thực sự không có Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì thương lượng với ai? Ai cũng thấy thế và các báo đều nói thế” (4).


Tuy nhiên, Chiến thắng Điện Biên Phủ ngày 7-5-1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã đưa vấn đề Đông Dương trở thành tâm điểm của Hội nghị Geneva, đồng thời làm thay đổi tình hình phía Pháp, với việc Thủ tướng mới của Pháp Pierre Mendès France nhậm chức tháng 6-1954 cùng quyết tâm thúc đẩy giải quyết xung đột ở Đông Dương, trước ngày 20-7-1954.



Hội nghị Geneva về lập lại hòa bình ở Đông Dương diễn ra đúng vào thời điểm người Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ. Đối với Thụy Sĩ, đây là cơ hội đăng cai một hội nghị quốc tế quan trọng trên lãnh thổ của mình. Do đó, nước chủ nhà đã có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về lễ tân, nơi ở, an ninh, truyền thông, logistic, ngôn ngữ, thị thực và hàng nghìn chi tiết quan trọng khác để hội nghị với hàng trăm đại biểu tham dự diễn ra suôn sẻ.


Thành công của Hội nghị Geneva năm 1954 đã có nhiều tác động quan trọng đối với Thụy Sĩ. Geneva là nơi đăng cai nhiều hội nghị, đàm phán và hội nghị của các nguyên thủ quốc gia như: Hội nghị Tứ cường năm 1955 giữa Mỹ, Liên Xô, Anh và Pháp; cuộc gặp giữa Tổng thống Mỹ Reagan và người đồng cấp Liên Xô Gorbachev ngày 19-11-1985 hay giữa Tổng thống Nga Vladimir Putin và Tổng thống Mỹ Joe Biden tháng 6-2021…












(Còn nữa)


LINH OANH


(1), (2), (3). Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, t.8, tr.340-341.


(4) Luật sư Phan Anh, Nxb Công an Nhân dân, tr.413

Xem tiếp...
 

Chủ đề tương tự

Back
Top Bottom