Hành trình tại Nam kỳ - Bác sĩ Albert Morice

Long Đế

Long Đế Đại Việt
⚔VIP⚔
Bài viết
1,227
Xu
2,776
Hành trình tại Nam kỳ - Bác sĩ Albert Morice

Hành trình tại Nam kỳ: Những ấn tượng ban đầu​

Đầu thập niên 1870, bác sĩ Albert Morice đến Nam kỳ và viết một cuốn du ký có nhan đề Voyages en Cochinchine.Tập du ký đăng lần đầu trên tạp chí Le tour du monde (Vòng quanh thế giới) năm 1875 với nhiều tranh minh họa"chưa từng được công bố" lúc bấy giờ. Thanh Niên xin trân trọng trích giới thiệu cuốn du ký này.​




Lúc đó là chín rưỡi sáng, tàu vận tải nhà nước la Creuse tắt máy và thả neo trong bến cảng Sài Gòn.
Con tàu hơi nước khổng lồ lập tức bị bủa vây bởi thuyền tam bản, một loại thuyền nhỏ của người An Nam gợi nhớ đến chiếc gondola xứ Venice, với mui đặt chính giữa và người đứng cầm chèo. Một đám đông sĩ quan và nhà buôn gần như lập tức tràn lên boong tàu và khoang thượng đuôi tàu.
...Dòng sông ở chỗ này hùng vĩ và bao la đến nỗi người ta đã lấy tên của nó để đặt cho bến cảng. Một đám thuyền bè đủ loại, mái chèo, buồm, hơi nước chen chúc nhau hai bên bờ; vài chiếc tàu buôn, trong đó hai cái của người Anh, đang đốt than, và đằng xa kia, tôi thấy Fleurus, pháo hạm tuần tra, con tàu hằng ngày vẫn bắn đại bác báo hiệu sáng, trưa và chiều tối.
Hành trình tại Nam kỳ: Những ấn tượng ban đầu - Ảnh 1.

Về phía bờ sông, hữu ngạn thì phủ đầy những lều tranh nhỏ, phần lớn ngập một nửa trong nước sông Đồng Nai; còn tả ngạn là đất Sài Gòn (không phải Saïgon như người ta vẫn cố tình gọi ở Pháp). Khách sạn Cosmopolitan đồ sộ hay chính là Maison Vantaï [sic, Wangtaï - nhà của thương nhân Hoa kiều Vương Đại] ngạo nghễ trên bờ sông ngay sát bến tàu, phô ra mặt tiền thênh thang ba tầng lầu của nó; hàng me trên đường Catinat [nay là Đồng Khởi] và những đường phố chính khác của châu thành vươn cao những tán lá xanh thẫm, so le; và những chiếc xe đầy nhóc nhưng không mấy thoải mái mà người ta gọi là xe thổ mộ (malabar)...
Quãng mười một giờ tôi đã có thể lên bờ, hành lý của tôi cùng với hành lý của những người Nhà nước được chở về kho cảng Hải quân, và cuối cùng tôi cũng đặt chân lên mảnh đất đỏ và bụi bặm đặc trưng của Sài Gòn này.
Dù mới đến thuộc địa nhưng tôi đã thu thập khá nhiều thông tin để biết rằng trước hết tôi phải tìm đến một trong vô số nhà buôn Á châu mà cửa hàng của họ tràn ra một phần đường các con đường nhỏ, để mua một chiếc salaco. Salaco là mũ của miền nhiệt đới; nó gần giống như mũ cát làm từ mủ cây lô hội, hay đúng hơn là thân cây điền thanh (người An Nam gọi là điên điển), người Anh ở Ấn Độ gọi mũ này là salatopi, nó có chức năng bảo vệ hộp sọ Âu châu khỏi cái nắng quá dữ dội của mặt trời. Đúng là chiếc mũ không đẹp và có phần nặng nề, nhưng người ta sẽ nhanh chóng quen với nó, dưới vành mũ trắng này người ta có thể thách thức những cơn say nắng. Bạn hãy hình dung một vật hình tròn, mỏng, lõm một bên và lồi ở bên kia, cố định bằng ba chiếc nẹp đứng nối với một viền bên trong có bán kính nhỏ hơn nhiều… và sau khi nhét vào túi cái mũ phớt không còn xài được nữa ngoại trừ mấy giờ ngắn ngủi chiều tối, tôi vội vã bước vào khách sạn đầu tiên gặp trên đường.
Một sân hiên khá sạch sẽ, phía trên gắn một biển hiệu ngạo nghễ của khách sạn này: Hôtel de l'Univers [góc đường Vannier (nay là Ngô Đức Kế) và Turc (nay là Hồ Huấn Nghiệp)], mở lối vào một căn phòng phục vụ cà phê, nơi có vài người Âu châu đang ngồi. Vì đã ăn trưa trên tàu và lại hơi mệt nên tôi chỉ muốn tắm rửa và nghỉ ngơi: tôi lấy một phòng, và dưới rèm che của chiếc màn chống muỗi khá rộng rãi nhưng than ôi, chi chít lỗ thủng, lần đầu tiên sau bốn mươi lăm ngày lênh đênh vượt biển, tôi mới được thoải mái duỗi cơ thể rã rời này.
Tôi thức dậy lúc ba giờ chiều, và sau khi tắm táp thì tôi đi lấy hành lý. Hai phu khuân vác người Hoa cao lớn, cởi trần, đội mũ rơm to đùng và dày cộm như cái chuông, vai mang đòn gánh chắc nịch, lao theo tôi và nhanh chóng giật lấy hành lý của tôi, không quên hét vào mặt nhau vài câu bằng thứ tiếng cục cằn đơn âm thoạt nghe rất chối tai.
Việc quan trọng đã giải quyết xong, tôi liền tới phòng tiệc. Trong phòng kê nhiều bàn nhỏ, và bên trên là hai hàng quạt kéo (panka) đặt song song, đó là tất cả những gì đập vào mắt tôi. Panka hay punka chỉ đơn giản là một khung gỗ vuông với hai mặt lót vải bông, cố định bằng một sợi dây thừng, dây này chạy qua rãnh của một ròng rọc và luồn qua một lỗ tường. Một người bản địa đứng ngoài căn phòng luân phiên kéo và thả. Chính nhờ phát minh mà chúng ta đã du nhập từ Ấn Độ này, người ta mới có thể chống lại cơn biếng ăn luôn ám ảnh sau những ngày nắng nóng kịch liệt. Gió quạt không chỉ phục hồi sinh lực và sự ngon miệng mà còn xua đuổi ruồi muỗi và những loài côn trùng khó chịu khác luôn nhăm nhe da thịt hoặc đĩa ăn của bạn.
Sau một bữa khá no nê bù cho những bữa trên tàu thường xuyên đói, tôi ra ngoài khách sạn, ngồi gần một chiếc bàn nhỏ trong rất nhiều bàn đang đặt cà phê và rượu mùi. Tôi bắt đầu xem xét kỹ lưỡng hơn chỗ mình đang ở. Tôi nhận thấy một điều đã gây ấn tượng ngay sau khi đặt chân đến; đó là dung mạo đặc biệt của cư dân, phần lớn đã sống lâu đời ở thuộc địa: họ có nước da hơi vàng, gương mặt hốc hác và đôi mắt rất sáng…
Tôi dành một khoảng chiều tối với một đồng nghiệp mà tôi quen trên chuyến vượt biển, anh là người thanh niên vui tính nhất tôi từng gặp. L., vốn không ăn tối ở khách sạn nơi anh nghỉ giống như tôi, đã dẫn tôi vào một trong những quán cà phê nằm trên bến cảng, và chúng tôi uống mừng hành trình hạnh phúc bằng một chai bia Na Uy.
Những đứa bé trai và gái An Nam, cao chừng hai thước [sic], lại gần đưa cho chúng tôi một chiếc bấc đang cháy ngay khi chúng tôi cuộn một điếu thuốc. Lối ăn xin trá hình này, duy nhất còn gặp ở Nam kỳ, diễn ra với những cử chỉ và giọng cười dễ thương đến mức tôi sẵn sàng bỏ qua hộp quẹt nhỏ mà quán mang tới cho người hút thuốc. (còn tiếp) t
(Nguyễn Quang Diệu lược trích từ Voyages en Cochinchine của Albert Morice - Thư Nguyễn chuyển ngữ)
 

Hành trình tại Nam kỳ: Cuộc khám phá đầu tiên​

Cuộc khám phá thành phố Sài Gòn được Albert Morice thực hiện trên hai trục đường chính là Catinat và Nationale mang đến cho vị bác sĩ cảm giác hân hoan.​




Sáng hôm sau, sau một giấc ngủ bị quấy rầy vì quá nhiều kẻ hút máu - những kẻ buộc tôi phải đưa ra định nghĩa duy nhất phù hợp với cái màn: những tấm rèm vải mousseline nhốt muỗi - tôi thức dậy để đi thăm thành phố. Nhưng trước khi thỏa mãn sự tò mò chính đáng của mình, tôi muốn kiểm tra một số động vật mà tôi đem từ Pháp qua và đã được tôi hết lòng chăm sóc trên suốt hải trình dài đằng đẵng. Đó là hai con rắn ráo vẫn còn nhỏ nhưng vẻ đáng yêu non nớt của chúng làm tôi mê thích. Tôi mở tủ com-mốt, nơi tôi đã cất chiếc hộp chứa hai con rắn. Trời đất ơi! Hàng đàn kiến đen túa ra từ đó và tôi chỉ còn thấy hai bộ xương trơ trọi. Loài kiến của vùng nhiệt đới vừa cho thấy thế nào là hoạt động điên cuồng. Tôi sẽ không chìm đắm trong nỗi đau nhức nhối này nữa: phải có một trái tim của nhà tự nhiên học mới hiểu được nó.
Hành trình tại Nam kỳ: Cuộc khám phá đầu tiên - Ảnh 1.
Cảnh chợ Sài Gòn
Hình họa của D.Maillart, dựa theo các bức ảnh
Quá đau buồn vì cuộc phiêu lưu bi thảm ấy, tôi đành ra đường một mình vì tôn trọng giấc ngủ của người bạn mà tôi tin là rất say sưa. Bất cứ khi nào đi thăm thú một thành phố lần đầu, tôi đều muốn một mình; tôi cho rằng phải như vậy thì những ấn tượng mới khắc ghi bền lâu hơn.
Từ khách sạn tôi rẽ phải, một con chó nhỏ xấu tệ khinh thường chào tôi bằng một tiếng sủa chói tai, và tôi vào đường Catinat, một trong những trục lớn của thành phố. Lúc đó là sáu rưỡi sáng, người Hoa sống ở phía dưới đường này đang rửa ráy trước cửa nhà một cách thản nhiên và khiếm nhã...
Xe hơi do những người Ấn đen đúa gốc Malabar lái cứ nhằng nhẵng bám theo tôi: "Quan ba, quan ba, mời lên xe!". Những đứa trẻ con da bồ hóng hoặc ngăm đen, đầu tóc bù xù, đôi khi đội một chiếc mũ lính thủy sờn rách, mặc những bộ đồ đơn sơ hết sức, ào tới quanh tôi ngay khi tôi dừng lại ở một quầy hàng và liên tục nài: "Quan ba, dùng giỏ này nha!", vừa huơ huơ những chiếc giỏ bự chảng, sẵn sàng đựng bất cứ thứ gì mà tôi muốn mua.
Hành trình tại Nam kỳ: Cuộc khám phá đầu tiên - Ảnh 2.
Những đứa trẻ Sài Gòn
Hình họa của D.Maillart, dựa theo các bức ảnh
Càng rời xa bến cảng tôi càng thấy đường phố dâng cao và nhà cửa theo kiểu Âu mọc lên chi chít. Ở trên cùng con đường [Catinat], tôi thấy bên trái là cung điện nhỏ duyên dáng của Giám đốc Nội vụ [bản đồ Sài Gòn năm 1878 cho thấy vị trí này là Hôtel du directeur de l'Interieur và Direction de l'Intérieur, tức dinh Đổng lý Nội vụ hay còn gọi là dinh Thượng thơ], tọa lạc giữa một khu vườn xanh mát, từ trong vườn một con nai to lớn bỗng thò đầu ra tò mò nhìn tôi. Xa hơn nữa, tôi thấy sở làm, xưởng đúc tiền [nguyên văn: la Monnaie, về sau là trésor public (kho bạc hoặc nha ngân khố), nay là phần khu đất cao ốc Metropolitan, góc Nguyễn Du và Đồng Khởi], bưu điện [thành phố]. Đúng là phần lớn những tòa nhà này ngăn cách nhau bởi nhiều khoảng đất ít nhiều rộng rãi, nơi tre, thầu dầu, cà độc dược, dây leo to và cao và cỏ hoang chen lấn nhau. Nhưng đường nét táo bạo và độc đáo của huyết mạch chính chạy trong thành phố này cùng với tầm nhìn từ những ngôi nhà đẹp mắt đã tạo cho tôi một ấn tượng cực kỳ dễ chịu.
Quãng tám giờ, mặt trời trở nên không thể chịu đựng nổi, bất chấp chiếc mũ salaco, nên tôi trở về theo đường Nationale [nay là Hai Bà Trưng], song song với đường Catinat và thưa người hơn [tác giả đi về hướng quảng trường/bến cảng]. Trên đường này cũng có những ngôi nhà tiện nghi xen kẽ với những túp lều nhỏ bé và trảng bụi, giống như bụi rậm ở Pháp hay rừng rậm ở Ấn Độ. Tôi nhận thấy trong số những tòa nhà trên đường này có dinh Thống soái cũ [nguyên văn: ancien palais du Gouvernement, tức dinh gỗ, bấy giờ dinh Thống soái mới (nay ở vị trí chỗ dinh Độc Lập) đang trong giai đoạn hoàn thiện], trụ sở chính của trạm chăm sóc y tế [tức Service de Santé Militaire et Direction de l'Intendance, nay là khuôn viên IDECAF] và các tòa nhà của Công binh (Génie).
Tôi gặp vô số đàn ông và nhất là phụ nữ Ấn Độ, nước da đen đúa hoặc đỏ au, quấn vải thêu kim tuyến và màu sắc lòe lọe, vàng và xanh lá. Họ thường xỏ khuyên bạc ở mũi; vóc dáng cao lớn và mập mạp của họ khác hẳn với hình dung nhỏ bé và mảnh mai của phụ nữ An Nam mà tôi thấy ai nấy đều tất tả, oằn mình dưới những món hàng mang ra chợ; theo sau họ là những đứa trẻ, cũng mang những gánh nặng quá khổ khiến chúng phải thường xuyên dừng nghỉ. Đến giữa đường, bên tay phải là đồn cảnh sát, có mấy người Âu bước ra cùng với những người Malabar, Hoa và nhiều nhất là An Nam. Người An Nam bé nhỏ trong bộ cảnh phục, với thanh kiếm nhỏ, chiếc mũ salaco tin hin và búi tóc lớn trên đầu... Những người Hoa đi trước một thanh niên An Nam gánh đồ ăn, chốc chốc lại vượt qua tôi.
Tôi hân hoan trở về sau cuộc khám phá đầu tiên đã cho tôi một cái nhìn sơ khởi về các sắc tộc khác nhau cùng chung sống trong thành phố, và đánh giá những thành tựu tuyệt vời của một tự nhiên dư dả ánh sáng mặt trời và mưa gió. (còn tiếp)
(Nguyễn Quang Diệu lược trích từ Voyages en Cochinchine của Albert Morice - Thư Nguyễn chuyển ngữ)
 

Hành trình tại Nam kỳ: Cư dân và cuộc sống thường nhật​

Những quan tâm bé mọn đối với tự nhiên không ngăn tôi nghiên cứu một chủ đề quan trọng hơn nhiều, đó là dân chúng An Nam.​




[...] Những gương mặt phẳng lì, thường không biểu cảm, những đôi mắt thâm xì và nhất là cái mũi tẹt và đôi môi dày vểnh lên, đỏ ối hoặc thâm đen vì trầu, không hợp chút nào với quan niệm về vẻ đẹp của ta.
Hành trình tại Nam kỳ: Cư dân và cuộc sống thường nhật  - Ảnh 1.
Những người lính và kỵ sĩ ở Sài Gòn.
Hình họa của P.Fritel, dựa theo một bức ảnh
Nhưng sau vài tháng ở đây người ta rốt cuộc cũng nhận thấy một nét riêng trên nhiều gương mặt An Nam và chọn ra những điểm dễ coi nhất […].
Dù sao đó cũng là một chủng tộc nhỏ bé. So với họ chúng ta quá cao lớn, sức của họ dĩ nhiên thua xa chúng ta; hoặc vì chất lượng vệ sinh rất tệ, hoặc vì nhược điểm tự nhiên, không ai trong số họ có thể sánh ngang một người Âu châu. Về nước da, những ai có nước da không quá sẫm màu thì lại trông nhợt nhạt. Người An Nam chỉ hơn ta hai điểm: khả năng chèo thuyền mười giờ liên tục, và chịu nắng rất giỏi.
Cuộc đô hộ của [người Pháp] chúng ta ở Nam kỳ đã kế thừa một cuộc thống trị nặng nề hơn và có thể tồi bại hơn của quan lại triều đình Huế… Tuy nhiên, ngoài những thói tật của những giống dân bị tước đoạt tự do, họ vẫn có các phẩm chất đáng hứa hẹn: vui vẻ tới mức trào lộng, khả năng học và hiểu tốt, và đặc biệt ở một số người, đó là niềm tự hào chủng tộc.
Trường Sư phạm Sài Gòn [Ecole Normale], nơi đào tạo các giáo viên và thông ngôn, trong vài năm tồn tại ngắn ngủi [đổi thành Trường Trung học Bản xứ (Collège Indigène)] của nó đã từng gặt hái kết quả rất đáng ngợi khen. Nói tóm lại, đây là một chủng tộc có thể đạt tới sự hoàn thiện. Bất chấp họ thiếu nhiều thứ, như là: cảm giác nghệ thuật chẳng hạn. Nhưng trong vài bức tranh tường, ta vẫn thấy một cảm giác nghệ thuật đáng nể, nơi thiên nhiên tươi vui và sống động - hoa lá, chim muông, côn trùng - được tái hiện bằng tình yêu; nhưng nhìn chung, chủng tộc này vô cảm với nghệ thuật; âm nhạc đơn điệu và chói tai của họ không dành cho đôi tai của chúng ta và tôi ngờ rằng tai của họ sẽ thích thú với âm nhạc của ta; điêu khắc gần như không được biết đến; thơ ca nghèo nàn; họ không biết khiêu vũ. Về những bộ môn khoa học mà họ theo đuổi, tốt hơn hết là đừng nói đến. Kiến thức văn học của họ chỉ quanh quẩn ở vài ba chữ Hán.
Đời sống của họ là đời sống thiếu thốn và mất vệ sinh nhất mà người ta có thể tưởng tượng: nước không lọc, uống nước múc từ kênh rạch lên, hầu như không được khử với chút phèn; nước pha trà lại càng hiếm hơn; cơm ăn với ớt cay, dưa leo và nước mắm, cá tươi hoặc khô, và vài thứ quả, đó là tất cả thức ăn ở khắp Nam kỳ; có thể họ không phải là một dân tộc ăn uống đơn điệu và giống như nhau khắp mọi nơi.
Thịt heo là một trong số các loại thịt họ thi thoảng dùng, nhưng đó là thứ thịt nguy hiểm vì thường xuyên chứa sán dây. Một loại rượu gạo thô, tên sam-chéou hay soum-choum [tức rượu trắng (saké), đây là loại rượu cất từ gạo lên men, phổ biến ở Trung Quốc và Đông Nam Á, giống như rượu sake ở Nhật Bản] như thường gọi ở thuộc địa, là thức uống có cồn duy nhất của họ; ngoài ra phải thừa nhận rằng họ không quá ham thích rượu. […]
Hành trình tại Nam kỳ: Cư dân và cuộc sống thường nhật  - Ảnh 2.
Thư lại.
Hình họa của E.Ronjat, dựa theo một bức ảnh
Khi ăn, họ dùng đũa kiểu Trung Hoa, thứ mà xưa kia được gieo rắc quá nhiều ngụ ngôn và giờ đã bị bác bỏ gần hết.
Quần áo của họ, vốn chỉ bị vứt đi khi quá rách nát, không đủ che thân cho họ trong những đêm ẩm ướt trên kinh rạch hay trong những giờ sáng sớm của tháng chạp và tháng giêng, khi họ rét run cầm cập ở nhiệt độ 180C. Chính vì vậy, ngay ở tuổi đầu tiên, nhiều đứa trẻ đã chết vì viêm phế quản, và nhiều bệnh lý đường ruột không tìm thấy nguyên nhân nào khác.
Về nhà cửa, hầu hết là nhà sàn, một nửa ngâm trong nước, một nửa ở trên đất hoặc bùn, và cực kỳ nhớp nhúa.
Canh tác lúa và đánh bắt cá đã làm cho dân xứ này sống đời lưỡng cư. Nước thường dâng đến sàn nhà người An Nam, nhất là lúc triều cường, và khi đó ta thấy người bản địa ngồi chồm hổm trên bàn hoặc đung đưa trên chiếc võng thô kệch, hát một điệu buồn tẻ hoặc hút một điếu thuốc cuốn loe đầu.
Dáng đi của họ rất đặc trưng: đàn ông và phụ nữ khi bước hai bàn chân cách xa nhau, hướng ra ngoài và đánh hông thô thiển khiến cho cái tật ưỡn lưng càng lộ rõ, có lẽ vì thói quen đứng chèo thuyền.
Một vài tư thế và cách vận động của họ khá đặc biệt và đáng nhắc đến: trẻ con được mẹ mang, nhưng không phải trên tay như ở ta hay trong túi địu sau lưng như ở một số bộ lạc Phi châu mà cắp trên hông và ôm bằng một cánh tay.
Tư thế nghỉ ngơi của họ nhìn rất mệt mỏi: họ ngồi chồm hổm trên gót chân, nhưng không chạm đất; họ có thể ngồi tư thế đó rất lâu; và trên đường phố không hiếm gặp những người ngồi chồm hổm nhai trầu như thế.
Để leo lên cây, họ không dùng đầu gối hay thân cây mà họ nhảy lên một độ cao nhất định và dùng bàn tay, bàn chân chụp lấy cái cây, như những con khỉ. Cuối cùng, điều đặc biệt là họ không biết ôm hôn; người mẹ không hôn con, họ chỉ hửi chúng bằng mũi. Đây là một trong những nét đặc trưng làm cho người Âu mới đến phải kinh ngạc.
Còn về sự tách biệt của ngón chân cái, được coi là đặc điểm của chủng tộc, ngày nay chúng ta phải thừa nhận rằng đã phóng đại chi tiết này.
(còn tiếp)
(Nguyễn Quang Diệu lược trích từ Voyages en Cochinchine của Albert Morice - Thư Nguyễn chuyển ngữ)
 

Hành trình tại Nam kỳ: Đàn ông và phụ nữ Nam kỳ​

Người [đàn ông] An Nam chỉ đến khi già mới có một gương mặt đặc trưng và khác hẳn gương mặt thời trẻ. Trông họ như một giống dân khác.​




Râu của họ mọc rất muộn và không bao giờ nhiều; một hàng ria mép lơ thơ và một chòm râu dưới cằm lác đác là tất cả những gì tạo hóa ban tặng cho họ; họ không có râu quai nón. Râu này bạc đi nhanh chóng. Những ông chủ gia đình người An Nam thường nghĩ đến việc thay thế những niềm vui không còn hợp tuổi bằng một vẻ đạo mạo cao quý. Ông già bước đi oai vệ, áo dài, khăn đóng và cầm một cây dù và một cái quạt bất ly thân. Một điếu thuốc treo suốt trên môi, và ông ta chỉ lấy nó ra để nhổ nước bọt đỏ quạch màu trầu hoặc để thay miếng thuốc quá nát. Ông ta trông có vẻ nghiêm trang, ngờ vực và đôi khi hung dữ. Không phải vì ông ta đã đoạn tuyệt với mọi niềm vui trần thế: rượu thì ông ta đã uống từ khi còn trẻ và giờ còn nghiện hơn, ông ta vẫn còn cười rạng rỡ khi được một người quen Âu châu mời một ly absinthe hoặc vermouth, hay thậm chí trộn lẫn cả hai. Nhưng tiền bạc mới là vấn đề khiến ông ta trở nên thèm thuồng và xảo quyệt; ông ta thích đồng bạc [Đông Dương, piastre] vì chính bản thân nó chứ không phải vì thứ mà nó có thể đem lại.
Hành trình tại Nam kỳ: Đàn ông và phụ nữ Nam kỳ - Ảnh 1.
Một ông quan Nam kỳ. Hình họa của E.Ronjat, dựa theo một bức ảnh

Nếu tài sản hoặc cấp bậc cho phép ông ta tậu một con ngựa thì lòng kiêu ngạo của ông ta chẳng còn giới hạn nữa. Đội chiếc nón rơm quai lụa, chân trần xỏ trong bàn đạp, ngựa treo vô số lục lạc leng keng trên đường đi, trong khi mặt trời phản chiếu yên cương bằng da màu đỏ thì ông già ngạo nghễ băng qua thế giới thấp hèn và không bao giờ đoái hoài chuyện gì, ngoại trừ vì người Âu. Sự phù phiếm này chỉ vấp phải phiền hà nếu như ông ta gặp một viên thanh tra [bản xứ vụ], bởi vì theo phép tắc An Nam thì ông ta phải xuống ngựa và cúi chào viên quan theo truyền thống.
Con ngựa, vốn là niềm tự hào của ông ta, lại không được ông ta chăm sóc xứng đáng. Một hàm thiếc tua tủa mũi nhọn làm nó thâm tím mõm, chẳng còn cảm nhận được gì và nếu nó hổn hển sau một hành trình mệt mỏi, nó sẽ bị bỏ rơi mà không được tắm táp, băng bó; tóm lại nó thường phải tự kiếm ăn. Dù bị bỏ rơi như vậy nhưng con vật dũng mãnh này vẫn tận tâm phục dịch, trong khi ngựa mà ta mang sang lại chết bệnh rất nhanh thì ngựa bản xứ vẫn chống chọi kiên cường với khí hậu bải hoải của hạ Nam kỳ. Ngựa này vóc dáng nhỏ: chỉ hơn ngựa lùn Islande, thường có màu hồng và hầu hết có một sọc đen hoặc nâu chạy giữa lưng. Ngựa này chạy nước kiệu, dáng chạy nhẹ nhàng và chắc chắn. Nhưng nó không dành cho người Âu cao lớn mà chỉ phù hợp với người An Nam nhỏ bé.
Hành trình tại Nam kỳ: Đàn ông và phụ nữ Nam kỳ - Ảnh 2.
Phụ nữ thượng lưu ở Sài Gòn và người hầu. Hình họa của E.Ronjat, dựa theo một bức ảnh

Nếu đàn ông Nam kỳ không đẹp thì phụ nữ Nam kỳ thế nào? Thực sự rất khó để nói một cách chung chung. Bên cạnh số đông rất tiếc là xấu, thì vẫn có vài trường hợp ngoại lệ đáng được ngưỡng mộ. Ảnh hưởng của môi trường và đời sống sung túc đóng vai trò rất lớn. Phụ nữ nhà giàu có thanh tú hơn, da trắng hơn, dáng người hài hòa hơn và tay chân mảnh dẻ hơn phụ nữ nhà nông, ngư dân. Hầu hết phụ nữ đều có khuôn mặt không đẹp: mũi tẹt, da có vết đậu mùa, môi sưng và bầm vì nhai trầu. Thứ đẹp nhất của con gái An Nam, như người ở thuộc địa thường nói, đó là mái tóc, luôn để dài, đen và khá đẹp, mặc dù hơi khô; vì vậy mà họ đặc biệt chăm sóc tóc, tết tóc một cách đáng yêu, thêm vào đó một búi tóc giả nếu chưa đủ dày, và xức dầu dừa - hỡi ôi! Mùi hương của dầu này như mùi dầu đốt đèn, rất khủng khiếp, và đáng buồn là người An Nam không có thứ dầu sáp nào khác để tùy ý sử dụng. Trang sức đeo trên tay hoặc chân cực kỳ tao nhã: những chiếc vòng tay nhỏ bằng vàng chạm lộng hoặc bạc trơn mà con gái hay đeo khiến cho cổ tay hoặc cổ chân của họ thật yêu kiều. Môi của họ rõ nét, vai thường quá rộng và vuông.
Thật khó chịu khi nhìn phụ nữ An Nam đi đứng; họ có thói quen vừa đi vừa vung vẩy hai cánh tay theo cơ thể và lắc mạnh sang phải, sang trái. Về trang phục, họ mặc một váy dài cao cổ và cài kín, nó vừa là áo khoác vừa là áo sơ mi (váy màu trắng nếu phụ nữ để tang, và thêm khăn đầu trắng); một chiếc quần trắng hoặc đen, vải trúc bâu hoặc lụa, và đôi khi đi với một dây lưng đỏ hoặc xanh lam; chân để trần hoặc hy hữu lắm thì đi hài cong. Đây là tất cả phục trang mà người con gái diện. Về trang sức, họ đeo bông tai bằng vàng hoặc hổ phách vàng, có dạng cái đinh với đầu đinh lớn và xuyên qua thùy tai nhỏ nhắn. Ở cổ tay là những chiếc vòng bằng vàng, bằng hạt huyền đơn giản hoặc phủ lá vàng, bằng bạc, bằng hổ phách hoặc thủy tinh vàng, đôi khi họ đeo một kiềng bạc ở cổ chân, và thường đeo chuỗi hạt. Phụ nữ bình dân để đầu trần hoặc đội một chiếc khăn tay đơn giản; phụ nữ thượng lưu đội mũ rơm hình tròn giống mũ salaco, nhưng vành rộng và cong, đỉnh bằng. Một dải lụa dày màu vàng gắn tua rua khá nặng đính ở mũ và buông xuống tận thắt lưng. (còn tiếp)
(Nguyễn Quang Diệu lược trích từ Voyages en Cochinchine của Albert Morice - Thư Nguyễn chuyển ngữ)
 

Hành trình tại Nam kỳ: Đời sống tinh thần​

Trong số những thói quen đặc trưng của người An Nam, có hai thói quen tôi đã nói nhưng cần phải nhấn mạnh: đó là thói quen ăn trầu và hút thuốc.​




Có đến 2/3 dân số Á châu và Úc châu ăn trầu. Toàn bộ Ấn Độ, toàn bộ Đông Dương, toàn bộ cư dân các đảo Sonde, bất kể họ thờ phượng Brahma, đức Phật, thánh Allah hay Jésus, bất kể người Cáp-ca hay người Mông Cổ, bất kể giới tính và tuổi tác, đều có thói quen nhai trầu hằng ngày.
Hành trình tại Nam kỳ: Đời sống tinh thần - Ảnh 1.
Khu phố châu Á, ở Sài Gòn
Hình họa của A.Marie, dựa theo một bức ảnh
Miếng trầu bao gồm các thành phần sau: một lá trầu bà tiêu, một miếng cau (một số dân tộc dùng cả quả cau dại), và cuối cùng là một chút vôi từ vỏ sò, trắng cho người nghèo, hồng cho người giàu. Vôi được quết lên lá trầu, lá bọc miếng cau; và thế là chỉ cần bỏ vào miệng. Vôi hồng là mặt hàng buôn bán quan trọng giữa Xiêm La và Nam kỳ, đặc biệt ở Hà Tiên; có vẻ như người chế vôi đã thêm nghệ vào để có màu sắc đẹp. Ngoài 3 nguyên liệu này, vài người tinh tế hơn, nhất là người Ấn, thường thêm vào chút thuốc lá…
Thói quen này có lẽ cũng có một vài điểm hữu ích, như giảm cơn khát và làm sạch miệng của người hay ăn cá, nhưng lại có bất tiện lớn là gây hỏng răng, mục răng, thối rữa và bào mòn chúng, nhuộm đỏ niêm mạc miệng và buộc người ta luôn phải nhổ ra một thứ nước đỏ quạch rất kinh tởm. Trên hết đó là hậu quả đáng tiếc của việc dùng vôi và do thói quen ít chăm sóc răng miệng của người An Nam. Người Ấn Độ dù cũng nhai trầu nhiều nhưng lại có hàm răng rất trắng. Người An Nam ở tầng lớp cao, nhất là giới trẻ, ít có thói quen ăn trầu hơn.
Đối với thuốc lá, trong khi người Trung Hoa hầu như chỉ hút xì gà và tẩu thì người An Nam lại ưa thuốc dạng điếu hơn: giấy cuốn rất dày, và thuốc có mùi đặc biệt rất dễ nhận biết. Ngon nhất là thuốc Long-tanh [?], người ta đồn rằng một trong những cách chế biến nó là rưới nước tiểu trâu: Tôi không chắc lắm; nhưng điều chắc chắn là hiếm có người Âu châu nào hút thuốc này.
[...] Trong số những công trình mới và thú vị, phải kể đến vườn Bách thảo rất đẹp nằm về phía đông của Sài Gòn. […]. Một cánh đồng mênh mông, xen lẫn với ruộng lúa và được gọi là Đồng mả mồ (Plaine des Tombeaux), trải dài đến tận gần vườn bách thảo này. Nơi đây đã diễn ra những trận giao tranh dẫn đến việc Nam kỳ lục tỉnh rơi vào tay người An Nam cách đây chưa đầy một thế kỷ, và sau đó rơi vào tay người Pháp. Tên của cánh đồng này xuất phát từ những mồ mả nổi lên chi chít và sự đồng nhất, trải dài bao la của nó; dù đơn sơ hay tráng lệ thì những lăng tẩm này cũng rất xứng đáng để nghiên cứu. Được xây bằng gạch hoặc đắp đất, mồ mả này phủ một lớp như thạch cao hoặc bê tông và sơn quét nhiều màu sặc sỡ với hình muông thú, cây cỏ cũng như tên và chức danh của người đã khuất.
Trên cánh đồng này, một hôm tôi đã chứng kiến lễ mai táng của người An Nam; những lễ này luôn được tiến hành với một sự xa hoa nhất định và người chết được một đám đông đưa tiễn. Quan tài được đặt trong một ngôi nhà nhỏ bằng giấy di động, sơn phủ những màu sặc sỡ nhất, và cắt tỉa nhiều hình thù kỳ lạ. Khoảng 20 phu đòn khiêng ngôi đền bé xíu này đi bằng những cây tre kê trên vai nâng đỡ tòa nhà. Những người mang đuốc và giấy vàng, giấy bạc vừa cầu nguyện đức Phật vừa châm lửa đốt trên đường đưa tang. Theo sau quan tài là đoàn người gồm thân nhân và bằng hữu; một vài trong số ấy thốt ra những lời ai oán miễn cưỡng trong khi che tay áo lại cười, bởi lẽ dân tộc này không dễ cảm động sâu sắc tới mức ngưng cười đùa, trong bất kỳ hoàn cảnh nào tâm trí họ cũng lập tức tóm lấy khía cạnh hài hước.
Một lăng mộ có phong cách tương tự lăng mộ ở Đồng mả mồ, nhưng đáng để tham quan hơn nhiều, đó là lăng của đức Giám mục d'Adran, người đã để lại những dấu ấn bất diệt tại Nam kỳ. Lăng của ngài không xa Sài Gòn, và gần lộ đi Gò Vấp. Tượng đài này, bởi nó xứng được gọi là tượng đài, có tường bao và lính gác sẽ mở cho du khách tham quan. Những bức bích họa kỳ lạ nhất do các nghệ sĩ An Nam vẽ, điểm tô cho bức tường; tôi vẫn nhớ một con cọp lớn với thân hình màu vàng rực rỡ, vằn đen và trừng trừng với hai con mắt lớn bằng thủy tinh tráng men. Một tấm bia lớn viết chữ Hán, cho biết chức vụ và công lao của Đức Giám mục đang yên nghỉ ở mảnh đất mang nợ ông rất nhiều.
Tôi còn thấy ở đó vài con tắc kè, trông như những vị thần canh giữ. Sống trong rừng, trong đống đổ nát, trong nhà người An Nam, người Pháp, loài thằn lằn lớn này rất phổ biến ở Nam kỳ, là một trong những động vật mang lại cho hệ động vật của xứ này nét đặc trưng khó lẫn. (còn tiếp) t
(Nguyễn Quang Diệu lược trích từ Voyages en Cochinchine của Albert Morice - Thư Nguyễn chuyển ngữ)
 

Hành trình tại Nam kỳ: Sân khấu Trung Hoa​

Bây giờ tôi xin được nói về sân khấu Trung Hoa, một loại hình giải trí quen thuộc của người Âu ở Nam kỳ.​




Sân khấu có hai loại: một ít phổ biến, và một, theo tôi thú vị hơn nhiều nhưng ít được nói đến, đó là sân khấu múa rối. Nhiều lần ở Sài Gòn, tôi đã chen vào đám đông thợ thuyền Trung Hoa tối nào cũng đến nghe và cười những lời bông đùa hay đúng hơn là những hoạt cảnh trào phúng của những diễn viên có một không hai này. Sân khấu nhỏ bé chừng bốn thước vuông nằm ở một ngã tư, sau kinh Tàu Hủ. Những bó đuốc cắm trên cọc tre soi sáng phía trước sân khấu, khắp nơi nồng nặc mùi dầu và mùi đặc trưng của thuốc lá Tàu. Không sao, tôi bất chấp những mùi đáng ghét này. Những con rối được làm đẹp hơn và tinh xảo hơn nhiều so với rối của ta; mọi bộ phận của nó đều chuyển động: chân, tay, đầu, ngón; và nhất là chúng có thể bẻ quặp ngón tay khiến cho tôi kinh ngạc. Hình như phụ nữ Trung Hoa thực sự có thể bẻ tay như vậy. Những tiết mục phổ biến nhất là vợ chồng ghen tuông, đánh trận và xử án. Tất cả được diễn với tiếng la hét cao vút chói tai từ cổ họng của các diễn viên Trung Hoa. Một bản nhạc bằng sáo réo rắt lặp lại một giai điệu hoặc tiếng đàn cò rin rít phụ họa cho diễn xuất, và khi vở kịch lên cao trào thì tiếng trống tam-tam dồn dập báo hiệu sự áp đảo ngạo ngược của thói hư tật xấu hoặc tưởng thưởng một đức hạnh.
Hành trình tại Nam kỳ: Sân khấu Trung Hoa - Ảnh 1.
Diễn viên Nam kỳ
Hình họa của E.Ronjat, dựa theo một bức ảnh
Một sân khấu nữa nơi đàn ông (vì phụ nữ không diễn trên sân khấu Trung Hoa) chiếm vị trí đáng ra phải nhường cho các con rối, vừa mới dựng cách đây không xa, nhân một lễ hội tôn giáo….
Nhạc công xếp hàng phía sau các diễn viên và hai bên cánh, trên cùng sân khấu, thương nhân Trung Hoa giàu có tổ chức buổi giải trí này thì vênh vang khệnh khạng như các hầu tước xưa trong kịch của Molière. Những quý ông này đã làm rất chu đáo, và bia rượu, thuốc lá được phân phát đầy đủ cho mọi quan khách. Người Hoa vốn được mệnh danh là người Do Thái phương Đông, luôn tằn tiện chắt bóp cho tới khi tự chủ về mặt tài chính; để rồi sau đó chìm đắm trong những thú vui tốn kém, và hơn thế nữa, còn thích mời mọc người khác tham gia. Tôi cố gắng để không phải tham dự toàn bộ buổi diễn: nó kéo dài dễ đến mười tiếng đồng hồ! Tôi chỉ nhớ một cảnh ghen tuông rất xuất sắc, và đặc biệt là một trận chiến đấu như thật giữa một đội kị binh với một vị thần cầm kiếm ngắn cùng một cái khiên khổng lồ che chắn như một mai rùa.
Hành trình tại Nam kỳ: Sân khấu Trung Hoa - Ảnh 2.
Nhà người Hoa ở Chợ Lớn. Hình họa của H.Clerget, dựa theo một bức ảnh

Thỉnh thoảng tôi đi săn bắn ở vùng ngoại ô Sài Gòn, chuyến săn thú vị nhất là ở Pointat, khu vực có nhiều thú rừng rất nổi tiếng. Hôm đó quãng mười giờ, mặt trời đã nóng sôi, chúng tôi đi về phía một ngôi chùa nằm giữa cánh đồng thơm (dứa) bao la, nơi thằng bồi đã sửa soạn bữa trưa. Chúng tôi đang nghỉ ngơi thì có hai, ba hương chức già, râu bạc, da nhăn tới đảnh lễ [quỳ xuống, chắp tay và dập đầu] trước đức Phật trong chùa. Thoáng thấy những chai rượu mùi nằm gần một bàn thờ, gương mặt nhăn nheo già nua của họ bỗng sáng lên một nụ cười giả lả và họ tới ngồi phía sau chúng tôi với một sự ngưỡng mộ thèm khát. Một người trong số đó mời tôi điếu thuốc lá đã châm lửa để bắt chuyện; trước sự kinh hoàng của các bạn đồng hành, tôi đã nhận lấy điếu thuốc, bất chấp cái màu nâu đỏ dính trên đó. Để đáp lại thịnh tình của họ, chúng tôi mời họ rượu absinthe và vermout; thật đúng là thứ họ mong đợi và không chậm trễ, họ nuốt ừng ực một lượng lớn rượu đủ làm một người Âu châu say ngất. Họ xởi lởi và nhiệt tình chỉ dẫn vì hy vọng được chia sẻ với mấy cậu bồi chút đồ ăn của chúng tôi. Khi chúng tôi đứng dậy để lên đường thì nghe thấy tiếng cót két của bánh xe trâu và ngay sau đó xuất hiện một chiếc xe kềnh càng. Chính những bánh xe lớn và đặc đã tạo ra âm thanh khủng khiếp đó. Người An Nam nói rằng tiếng bánh xe có tác dụng đe dọa cọp và khiến chúng không dám bén mảng đến những đường có xe đi. Trong nhiều vùng nội địa, đây là phương tiện giao thông duy nhất có thể sử dụng để băng rừng ở những nơi mà bò không tiến lên được.
Sau Sài Gòn, Chợ Lớn là thành phố lớn nhất thuộc địa. Dân số vào khoảng tám mươi ngàn người. Chợ Lớn cách Sài Gòn năm cây số rưỡi nhưng lại nối với thành phố Âu châu này bằng một chuỗi liên tiếp những làng mạc, những dinh thự của các thương nhân Hoa kiều giàu có, những chùa chiền làm chốn nghỉ chân. Chợ Lớn là trung tâm của mọi hoạt động thương mại Trung Hoa tại thuộc địa. Ở đây người ta bán lúa gạo, vải vóc, sản phẩm xuất khẩu từ Trung Hoa, nhiều quá sức tưởng tượng; và sự náo nhiệt của phố xá, sự đông đúc của thuyền bè Trung Hoa và tam bản An Nam trên kinh rạch thực sự choáng ngợp.
Trong số những điểm đặc biệt của Chợ Lớn, phải kể đến những bãi quây cá sấu. Hãy tưởng tượng một hàng rào những cọc dài và nặng quây quanh một diện tích chừng hai mươi mét vuông trên bờ sông; trong vũng bùn đó, nơi triều cường thường xuyên làm ngập lụt, có từ một trăm tới hai trăm con cá sấu lúc nhúc. Thịt cho cá sấu ăn để bên cạnh. Khi muốn bắt một trong số quái vật đó, người ta rút hai chiếc cọc lên, ném một thòng lọng vào cổ con to nhất trong đàn và kéo nó ra ngoài; tiếp đến người trói đuôi nó dọc theo thân, siết chặt chân và dùng dây mây buộc chân vào lưng; một đầu dây mây dùng để buộc mõm, dây này chắc chắn đến nỗi bất chấp con cá sấu khỏe cỡ nào cũng không thể vùng vẫy thoát thân được. Về thịt cá sấu, tuy có hơi dai nhưng rất giá trị và không có mùi xạ hương như nhiều du khách tưởng tượng. Đây là loại thịt rất được ưa chuộng trên bàn ăn của người An Nam.
(Nguyễn Quang Diệu lược trích từ Voyages en Cochinchine của Albert Morice - Thư Nguyễn chuyển ngữ)
 

Chủ đề tương tự

Back
Top Bottom